50 Món Ma và các Cấp Độ Bồ Tát Trong Kinh Lăng Nghiêm
"Này A Nan, bởi vô minh vọng động nên biến hiện ra có hư không, thế giới và chúng sanh. Trong thân chúng sanh vì có vọng tưởng lẫn lộn, nên nó vọng động leo chuyền bên trong (như vượn như ngựa), khi các giác quan mở ra, thì nó rong ruỗi theo trần cảnh bên ngoài (như vượn xút xiềng, như ngựa tong chuồng). Rồi các ông chấp cái tướng vọng tưởng lăng xăng bên trong đó, cho là tâm tánh của mình. Một phen chấp nó làm tâm, thì không sao khỏi mê lầm cho rằng "Tâm ở trong Thân".
Chứ đâu biết rằng: Thân nầy, Tâm nầy cho đến núi sông, thế giới và hư không đều là vật trong Chân Tâm hiện ra cả". (Kinh Lăng Nghiêm, PHPT, trang 51).
Đức Phật đã nói trong Kinh Lăng Nghiêm: "Bởi các loài ma kia thấy người tu hành, sanh tâm lo sợ cho bà con quyến thuộc của chúng sẽ tiêu diệt, nên chúng dùng đủ thần lực đến nhiễu hại người tu. Chúng cũng đủ năm phép thần thông biến hóa chỉ chưa được Lậu Tận Thông". (Lăng Nghiêm, PHPT, trang 270).
"Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh rồi, thì cái trí quang sáng suốt hiện ra. Lúc bấy giờ Chân Tâm ông (A Nan) vừa tịch tịnh, lại vừa chiếu soi, bao trùm khắp cả mười phương hư không thế giới, lúc bấy giờ ông trở lại xem cảnh vật hiện tiền ở thế gian này, cũng như là việc trong chiêm bao. Khi ông được như thế rồi thì nàng Ma Đăng Già ở trong mộng kia làm gì bắt được ông". (Lăng Nghiêm, PHPT, trang 235)
"Này Phú Lâu Na, các ông khi đối với trần cảnh (thế giới, chúng sanh, nghiệp quả) chỉ đừng có khởi vọng niệm phân biệt thì tham- sân - si (ba duyên) không khởi. Ba duyên không khởi thời ba nhân sát - đạo - dâm chẳng sanh. Lúc bấy giờ anh khùng Diễn nhã Đạt đa (mê) ở trong tâm các ông tự hết, mà hết tức là Bồ Đề (sáng suốt). Khi ấy Chân Tâm của ông thanh tịnh, sáng suốt tự hiện bày, khắp cả Pháp giới, không cần phải cực nhọc khó khăn tu chứng hay xin cầu nơi ai cả". (Lăng Nghiêm, PHPT, trang 143).
"Trừ các nghiệp hiện tiền: Khi tiếp xúc với trần cảnh, không khởi vọng niệm phân biệt theo sáu trần, xoay các cảm giác trở về bản tâm thanh tịnh. Do ngoài không duyên theo trần cảnh, trong sáu căn không vọng động, đồng một thể thanh tịnh, nên mười phương thế giới đều được thanh tịnh sáng suốt; cũng như trong ngọc lưu ly có hàm chứa mặt trăng sáng. Hành giả lúc bấy giờ thân tâm thơ thới, chứng đặng Vô Sanh Pháp Nhẫn, mười phương chư Phật đều hiện trong Tâm người ấy. Từ đây hành giả lần lần tăng tiến tu hành, tiến lên các quả Thánh". (Lăng Nghiêm, PHPT, trang 265-266).
"Nầy Thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát giữ tâm rất vắng lặng, nhờ sức vắng lặng này, mà đoạn các phiền não, được vĩnh viễn thành tựu rốt ráo tánh Viên Giác, thì vị Bồ Tát ấy lúc bấy giờ chẳng rời chỗ ngồi mà vẫn nhập được Niết Bàn. Bồ Tát tu như thế, gọi là chỉ tu một pháp "Samatha" (tu chỉ)". (Viên Giác, PHPT, trang 135).
"Tu Bồ Đề! Người ưa pháp Tiểu Thừa, chấp bốn tướng: Ngã, Nhân, Chúng Sanh và Thọ Giả, nên đối với Kinh nầy, họ không thể tin hiểu hoặc đọc tụng, hay giảng dạy cho người" (Kim cang, PHPT, trang 129).
Nầy Thiện nam tử! Nếu hành giả muốn biết mình được vô ngã chưa, cứ xem trong lúc bị người hủy nhục, mà không thấy có người bị hủy nhục như thế là được vô ngã.
Trái lại, trong lúc thuyết pháp độ người, mà còn thấy có ta thuyết pháp thế là ngã tướng chưa đoạn. Còn nhân tướng, chúng sanh tướng và thọ mạng tướng cũng thế". (Viên giác, PHPT, trang 71).
"Này Tu Bồ Đề! Người phát tâm Bồ Đề chẳng nên chấp các Pháp thật có, mà phải thấy các Pháp là giả, biết các pháp là giả, hiểu các pháp là giả và tin các pháp là giả.
Tu Bồ Đề! Như Lai nói "các pháp", không thật có "các pháp", chỉ giả gọi là "các pháp". (Kim cang, PHPT, trang 185).
I. Phật dạy ba món tiệm thứ
- A Nan, ông nay muốn tu hành để thành Phật, thì phải tuần tự y theo ba món tiệm thứ này, mới có thể diệt trừ được gốc rễ của loạn tưởng, cũng như người muốn súc sạch cái bình để đựng đồ quý, thì trước hết phải đổ độc ra, kế dùng tro chùi rửa, sau dùng nước nóng và chất thơm rửa lại thật sạch, rồi mới có thể đựng vị cam lồ được.
Ba món tiệm thứ là:
1. Trừ các trợ duyên bên ngoài: Ăn, không nên ăn những vật không hợp với người tu hành, như ăn thịt, uống rượu và ngũ vị tân (hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu) v.v... Ngũ vị tân, ăn sống thì nó tăng trưởng tánh nóng giận, ăn chín hay sanh tham dục, tụng Kinh trì Chú chẳng hiệu nghiệm, Thánh Thần không bảo hộ. Còn chỗ ở tu thì phải tìm chỗ nào cho hợp với hoàn cảnh của người tu hành.
2. Trừ các chánh nhân bên trong: Cốt yếu là hành giả phải nghiêm trì tịnh giới, không dâm, sát, đạo và vọng, gìn giữ ngoài thân không phạm, trong tâm không động, thân và tâm đều thanh tịnh như băng tuyết.
3. Trừ các nghiệp hiện tiền: Khi tiếp xúc với trần cảnh, không khởi vọng niệm phân biệt theo sáu trần, xoay các cảm giác trở về bản tâm thanh tịnh. Do ngoài không duyên theo trần cảnh, trong sáu căn không vọng động, đồng một thể thanh tịnh, nên mười phương thế giới đều được thanh tịnh sáng suốt; cũng như trong ngọc lưu ly có hàm chứa mặt trăng sáng. Hành giả lúc bấy giờ thân tâm thơ thới, chứng đặng Vô Sanh Pháp Nhẫn, mười phương chư Phật đều hiện trong tâm người ấy. Từ đây hành giả lần lần tăng tiến tu hành, tiến lên các Thánh quả.
II. Hành giả phải trải qua 55 địa vị mới đến quả Phật
A Nan, người tu hành khi ái dục khô khan, sáu căn không còn chạy theo sáu trần nhiễm trước, lúc bấy giờ chỉ có trí huệ khô khan, chưa thấm nhuần nước Pháp của Phật. Ðây là địa vị đầu tiên tên Càn huệ địa (huệ khô), lần lần tấn tu vào địa vị Thập tín (mười món tin):
1. Tín tâm trụ
2. Niệm tâm trụ
3. Tinh tấn tâm
4. Huệ tâm trụ
5. Ðịnh tâm trụ
6. Bất thối tâm
7. Hộ pháp tâm
8. Hồi hướng tâm
9. Giới tâm trụ
10. Nguyện tâm trụ
Thập Tín
Thập tín hay Thập tín vị, Thập tín tâm là mười đức tin để tu tập của một vị Bồ-tát mà trong đó Tín Tâm đứng đầu. Đây là mười ngôi vị ban đầu vào cửa của bậc Tam Hiền. Theo Kinh Bồ-tát Anh Lạc Bổn Nghiệp quyển thượng, Thập Tín Vị gồm có:
1. Tín tâm là nhất tâm quyết định và an vui trong sự tu tập để mong đạt được thành công mà mình đã đặt hết niềm tin vào đó. Đây là đức tin vững chắc của người tu tập. Một vị Bồ Tát đối với Phật pháp trước hết phải xây dựng đức tin vững chắc, không bao giờ thối tâm lùi bước trước bất cứ một trở lực khó khăn nào lay chuyển và vẫn an vui tự tại trong sự tu tập một khi gặp phải những trở ngại đưa đến. Muốn được thành công ở ngôi vị này. Bồ-tát trong khi tu tập phải diệt cho hết các vọng tưởng của thế gian.
2. Niệm tâm là Bồ-tát phải thường tu tập về sáu niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Bố Thí và niệm Thiện, tức là thường niệm lục độ vạn hạnh của chư Phật không cho xao lãng.
3. Tịnh tín tâm là Bồ-tát khi nghe Bồ-tát tạng phải luôn luôn chuyên cần tinh tấn tu tập các Thiện nghiệp không cho gián đoạn. Bồ-tát Tạng là chỉ cho những Kinh điển đại thừa đề giải thích công hạnh tu nhân và chứng quả của các vị Bồ-tát. Bồ-tát Tạng gồm có các Kinh điển như là: Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm v.v... đều là những pháp môn tu học của Bồ-tát Tạng.
4. Định tâm là Bồ-tát phải thường buộc Tâm của mình an trụ nơi sự tướng và nghĩa lý của Phật Pháp một cách tự tại. Trong lúc tu tập Định tâm, Bồ-tát phải xa lìa hẳn ý tưởng phân biệt về tất cả pháp giả dối và thô tục của thế gian.
5. Huệ tâm là Bồ-tát khi nghe Bồ-tát tạng phải nên quán sát, xét đoán và cân nhắc một cách kỹ lưỡng về nghĩa lý của vạn pháp để nhận được tự tánh của muôn pháp đều là thật không và tĩnh lặng. Tự Tánh của vạn pháp thì không có vấn đề Ngã và Nhân, nên gọi là Vô Ngã và Vô Nhân.
6. Giới tâm là một vị Bồ-tát khi thọ giới luật thanh tịnh của Bồ-tát thì phải giữ gìn Thân, Miệng và Ý cho được thanh tịnh, giữ gìn không cho vi phạm bất cứ những lỗi lầm nào. Bồ-tát nếu như có phạm lỗi thì phải sám hối để cho tội lỗi sớm được tiêu trừ.
7. Hồi hướng tâm là phương pháp tu tập các thiện căn. Hồi hướng tâm nghĩa là Bồ-tát chỉ đem tậm nguyện hướng về nơi quả Bồ Đề làm cứu cánh mà không nguyện hướng về nơi các cõi trong Tam Giới và chỉ đem tâm nguyện hướng về sự bố thí để cứu khổ cho tất cả chúng sanh làm hạnh vị tha mà không mong cầu lợi ích cho mình. Hơn nữa Bồ-tát còn quyết chí đem tâm nguyện hướng về nơi cõi chân thật làm mục đích mà không đắm trước nơi danh tướng giả tạo trong thế gian.
8. Hộ pháp tâm là đề phòng và bảo hộ bản tâm của mình mà không cho nó phát khởi phiền não. Bồ-tát muốn bảo hộ bản Tâm của mình thì phải tu tập Mặc Hộ (giữ gìn sự tĩnh lặng), phải tu tập Niệm Hộ (giữ gìn chánh niệm), phải tu tập Trí Hộ, (bảo hộ Trí Tuệ), phải tu tập Tức Tâm Hộ (giữ gìn tâm niệm đã dứt các phiền não) và cũng phải giữ gìn năm pháp Hộ Hành khác. Năm pháp Hộ Hành khác cũng gọi là năm Chủng Hạnh. Năm Chủng Hạnh là: Thọ Trì, Đọc, Tụng, Giải Thuyết (Giải thích và thuyết pháp Kinh Luận) và Thơ Tả (Viết sách). Năm thứ này cũng phải giữ gìn thường xuyên.
9. Xả tâm là Bồ-tát phải xả bỏ tâm niệm yêu tiếc sanh mạng và tài sản của mình. Bồ-tát nếu như đã được tài sản và thân mạng thì có thể xả bỏ một khi cần đến mà không có khởi tâm luyến tiếc hoặc hối tiếc.
10. Nguyện tâm là Bồ-tát phải đem tâm phát nguyện luôn luôn tu tập các pháp môn thanh tịnh của chư Phật đã dạy sớm được chứng đắc. Đồng thời Bồ-tát phải có bổn phận khiến cho các pháp môn của chư Phật càng thêm được sáng tỏ và càng thêm được phổ biến khắp mọi từng lớp chúng sanh.
MÃN ÐỊA VỊ THẬP TÍN ÐẾN THẬP TRỤ
1. Phát tâm trụ
2. Trị địa trụ
3. Tu hành trụ
4. Sanh quý trụ
5. Phương tiện cụ túc trụ
6. Chánh tâm trụ
7. Bất thối trụ
8. Ðồng chân trụ
9. Pháp vương tử trụ
10. Quán đảnh trụ
Thập Trụ
Thập trụ vị hay Thập Địa Trụ, Thập pháp trụ, Thập giải là một trong 50 ngôi vị hành trì. Thập Trụ Vị là chỉ từ ngôi vị thứ 11 cho đến ngôi vị thứ 20. Sau khi trang bị xong chất liệu Thập Tín Vị để tu tập. Hành Giả bắt đầu khởi điểm Thập Trụ Vị để tiến hành. Thập Trụ Vị gồm có:
1. Sơ phát tâm cũng gọi là Phát Ý Trụ. Sơ Phát Tâm Trụ nghĩa là an trụ vào nơi Sơ Phát Tâm làm căn bản tu tập, tức là y cứ vào khởi điểm của sự Phát tâm để tu tập. Phát Ý Trụ nghĩa là an trụ vào chỗ phát khởi Tâm Ý làm mục đích. Để an trụ căn bản vào nơi Sơ phát tâm, Bồ Tát trước hết phải tiến tu các phần Thiện căn và đồng thời sử dụng các phương tiện chân thật để phát khởi Tâm niệm của Thập Trụ. Kế đến, Bồ Tát đem Tín Tâm đó phụng sự Tam bảo, thường căn cứ vào 84.000 Bát-nhã-ba-la-mật-đa để tu tập tất cả hạnh lành của tất cả Pháp Môn. Ngoài ra, Bồ Tát còn phải thường xuyên phát khởi Tín Tâm để không tạo nên những Tà Kiến, không phạm bởi những Thập Ác (1), Ngũ nghịch, Bát đảo và không cho sanh vào nơi tai nạn. Hơn nữa Bồ Tát thường nên nghiên cứu Phật Pháp để được học rộng biết nhiều và cũng thường nên cần cầu nhiều phương tiện hành trang để sớm được vào cõi Không, để được an trụ vào nơi tánh Không. Đồng thời Bồ Tát còn sử dụng Tâm Trí của lý Không đã đạt được đó ra công tu tập Pháp Môn của Cổ Phật và khiến cho tất cả công đức đều được phát sanh từ nơi Tâm Trí nói trên. Đây là công hạnh của Sơ Phát Tâm Trụ.
2. Trì địa trụ cũng gọi là Trị Địa Trụ. Trị Địa Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự sửa trị, còn Trì Địa Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự hành trì. Để an trụ vào nơi Trì Địa, Bồ Tát nương theo cái Tâm Không đã đạt được để thanh tịnh 84.000 Pháp Môn. Tâm Thanh Tịnh sáng suốt đó cũng giống như Ngọc lưu ly hiện ra vàng rồng. Do bởi Diệu Tâm phát khởi, Bồ Tát mới tiêu trừ được những tội lỗi nghiệp chướng nên gọi là Trì Địa Trụ.
3. Tu hành trụ: cũng gọi là Ứng Hành Trụ. Tu Hành Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự hành trì tu tập. Ứng Hành Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự du hành để khất thực (Ứng cúng). Bồ Tát đã đầy đủ Trí Tuệ thông minh sáng suốt của Sơ Pháp Tâm Trụ và Trì Địa Trụ thì có thể du hành khắp mười phương không bị chướng ngại. Đây là chỉ cho sự thành quả tu tập của Tu Hành Trụ.
4. Sanh quí trụ: là Bồ Tát nhờ Diệu hạnh của Tu Hành Trụ ở trước nên kết hợp được Diệu Lý nơi chốn U Minh (Thế Giới Nội Tâm), tức là Bồ Tát sẽ thực thụ sanh vào nơi Diệu Lý đó và sẽ được làm Pháp Vương Tử con của nhà Phật. Diệu Hạnh đối với tánh Phật thì không khác nhau và sẽ thọ nhận một phần khí chất của tánh Phật để làm trợ duyên cho sự sanh khởi. Trường hợp này cũng giống như Thân Trung Ấm của một chúng sanh tự cầu nơi cha mẹ và sẽ nhập vào hạt giống của đức Như Lai để làm nhân duyên cho sự chuyển sang kiếp sau được sanh trong nhà Như Lai. Nguyên do nơi cõi U Minh (Thế Giới Nội Tâm), Diệu hạnh của Bồ Tát đã có đức tin vững chắc thì nhất định sẽ được dung thông và cũng sẽ được hội nhập để kết thành nhân duyên cho kiếp sau. Đây là ý nghĩa của Sanh Quí Trụ.
5. Phương tiện cụ túc trụ: cũng gọi là Trụ Thành Trụ. Phương Tiện Cụ Túc Trụ nghĩa là an trụ vào các phương tiện đầy đủ, tức là Bồ Tát đã trang bị đầy đủ các phương tiện. Tu Thành Trụ nghĩa là an trụ vào sự kết quả của hạnh tu tập. Bồ Tát đã trang bị đầy đủ các phương tiện tu tập, nghĩa là Bồ Tát đã tu tập đầy đủ vô lượng thiện căn và sử dụng các Thiện Căn đó để làm lợi ích cho mình cũng như lợi ích cho mọi người. Nhờ tu tập vô lượng Thiện Căn, Bồ Tát đạt đến kết quả là thành tựu được Thân Tướng của mình trở nên tròn đầy tốt đẹp và dung mạo của mình lộ nét đoan trang thanh thoát. Đây là chỉ sự thành quả của Phương Tiện Cụ Túc Trụ.
6. Chánh tâm trụ: cũng gọi là Hành Đăng Trụ. Chánh Tâm Trụ nghĩa là an trụ vào Tâm Chân Chánh. Hằng Đăng Trụ nghĩa là an trụ vào sự đi lên. Bồ Tát an trụ vào Chánh Tâm tức là đã thành tựu được Bát Nhã thứ sáu. Bát Nhã thứ sáu là chỉ cho Trí Tuệ Diệu Quan Sát. Sau khi thành tựu được Bát Nhã thứ sáu, Bồ Tát không những chỉ được kết quả là tướng mạo của mình trở nên tốt đẹp tròn đầy trong sáng và còn kết quả hơn nữa là Bản Tâm của Bồ Tát cùng với Phật Tâm đều giống nhau như một. Đây là chỉ cho sự thành quả của Chánh Tâm Trụ.
7. Bất thối trụ: cũng gọi là Bất Thối Chuyển Trụ. Bất Thối Trụ hay Bất Thối Chuyển Trụ đều nghĩa là an trụ vào ngôi vị này thì tâm không còn bị thối chuyển nữa. Bồ Tát an trụ vào ngôi vị Bất Thối tức là đã thể nhập được nơi cứu cánh của Không Giới Vô Sanh. Cứu Cánh của Không Giới Vô Sanh nghĩa là thế giới Không Tướng của Chân Như và thế giới đó rốt ráo không còn dấu vết của sinh tử lưu chuyển nữa. Ở đây Tâm của Bồ Tát thì luôn luôn thực hiện Hạnh nguyện Vô Tướng của Tánh Không Chân Như. Lúc đó Thân và Tâm của Bồ Tát liền hòa hợp lại nhau làm thành một thể. Thân Tâm hòa hợp này mỗi ngày mỗi tăng trưởng thêm lớn. Đây là chỉ cho sự thành quả của Bất Thối Trụ.
8. Đồng chân trụ: là non trẻ và trong sạch. Đồng Chân Trụ nghĩa là an trụ vào thời kỳ thanh tịnh trong trắng. Bồ Tát khi an trụ vào Đồng Chân tức là lúc đó Thân Tâm hòa hợp của Bồ Tát tự nhiên phát khởi một cách tinh tiến và thuần chánh. Thân Tâm hòa hợp của Bồ Tát phát khởi trước sau đều chuyên nhất và phát khởi không có chút điên đảo mê tưởng. Cho đến Bồ Tát cũng không có dấy niệm tà ma ngoại đạo để phá hoại hạt giống Bồ Đề. Nhờ đấy, cùng một lúc, mười Thân Tướng linh ứng của Phật (5) liền hiện bày đầy đủ trọn vẹn. Đây là chỉ cho sự thành quả của Đồng Chân Trụ.
9. Pháp vương tử trụ: cũng gọi là Liễu Sanh Trụ. Pháp Vương Tử nghĩa là con của Phật. Liễu Sanh Trụ nghĩa là an trụ vào sự chấm dứt lẽ sống chết. Kể từ Sơ Phát Tâm Trụ cho đến Sanh Quí Trụ thứ tư, bốn Trụ nói trên đều được gọi là Bồ Tát mới vào Bào Thai của bậc Thánh, còn từ Phương Tiện Cụ Túc Trụ thứ năm cho đến Đồng Chân Trụ thứ tám, bốn Trụ kế tiếp đều được gọi là giai đoạn nuôi dưỡng Thánh Thai để sớm được mau lớn. Riêng Pháp Vương Tử Trụ thứ chín là mới chỉ cho Thánh Thai đó đã đầy đủ hình tướng và có thể sanh ra để thành con của Phật, nên gọi là Pháp Vương Tử. Thí dụ này không ngoài mục đích là trình bày Trí Tuệ của Bồ Tát đã được phát sanh từ nơi giáo pháp cao quí của Phật. Nhờ Trí Tuệ đó, Bồ Tát mới đủ khả năng kế thừa Pháp Bảo và đồng thời phát huy ngôi vị của Phật càng thêm rộng lớn. Đây là ý nghĩa của Pháp Vương Tử Trụ.
10. Quán đảnh trụ: cũng gọi là Bổ xứ Trụ. Quán Đảnh Trụ nghĩa là Bồ Tát đã là con của Phật thì nhất định phải có trách nhiệm thi hành các Phật sự. Do đó đức Phật mới dùng nước Trí Tuệ rưới lên đỉnh đầu của Bồ Tát để thọ ký, nên gọi là Quán Đảnh. Thí dụ như, con của vua Sát Đế Lợi thọ nhận quyền uy nơi vua cha bằng cách chịu sự rưới nước phép lên đỉnh đầu của vua cha ban cho. Một vị Bồ Tát khi đạt đến Quán Đảnh Trụ thì đầy đủ ba Biệt Tướng:
a/- Độ chúng sanh: nghĩa là Bồ Tát đó đã đủ khả năng thi hành và có thể thành tựu được mười Chủng Trí (4) để hóa độ chúng sanh.
b/- ĐẠT ĐƯỢC CẢNH GIỚI MẦU NHIỆM: nghĩa là Bồ Tát đó đối với tất cả chúng sanh cũng như đối với Pháp Vương Tử Trụ thứ chín đều có thể trắc nghiệm đo lường được những cảnh giới của họ.
c/- HỌC RỘNG MƯỜI CHỦNG TRÍ: nghĩa là Bồ Tát đó nhất định phải thấu hiểu tường tận và rành mạch tất cả pháp.
Một vị Bồ Tát hoàn thành được ba Biệt Tướng nói trên tức là đã an trụ vào Quán Đảnh của Thập Trụ Bồ Tát.
MÃN THẬP TRỤ ÐẾN THẬP HẠNH
1. Hoan hỷ hạnh
2. Nhiêu ích hạnh
3. Vô sân hận hạnh
4. Vô tận hạnh
5. Ly si loạn hạnh
6. Thiện hiện hạnh
7. Vô trước hạnh
8. Tôn trọng hạnh
9. Thiện pháp hạnh
10. Chân thật hạnh
Thập Hạnh
Thập hạnh vị hay thập tâm hạnh là mười phương pháp tu hành về công hạnh lợi tha của Bồ-tát, một trong 50 ngôi vị tu tập của Bồ-tát. Thập hạnh vị là chỉ từ ngôi vị thứ 21 cho đến ngôi vị thứ 30. Thập hạnh vị gồm có:
1. Hoan hỷ hạnh: là Bồ-tát với hạnh nguyện hoan hỷ dùng vô lượng diệu đức của Như Lai (của Phật) để tùy thuận hóa độ cho chúng sanh trong mười phương cõi.
2. Nhiêu ích hạnh: Bồ-tát dùng mọi phương tiện khéo léo để làm lợi ích cho chúng sanh và khiến cho chúng sanh không bị mặc cảm trong sự thọ nhận lợi ích.
3. Vô sân hận hạnh: là một vị Bồ-tát luôn luôn phải thể hiện hạnh nhẫn nhục với mọi cộng việc, tức là Bồ-tát không bao giờ có thái độ giận tức trước bất cứ việc trái nghịch nào, cho đến cũng không bao giờ có ý hại mình và hại người. Một vị Bồ-tát thật hành hạnh không sân hận là phải nhún nhường cung kính mọi người và phải nhẫn nại mỗi khi đối diện trước oán cừu thù nghịch.
4. Vô tận hạnh hay Vô khuất nạo hạnh (công hạnh không hèn yếu chùn bước): Vô tận hạnh nghĩa là Bồ-tát phát tâm đại tinh tấn, nguyện độ tất cả chúng sanh không cùng tận. Trên con đường độ sanh, Bồ-tát tỏ ra siêng năng không chút giãi đãi, không chút yếu hèn và chùn bước trước mọi sự khó khăn đưa đến. Bồ-tát thật hành hạnh độ tha cho đến khi nào chúng sanh đều chứng quả Niết bàn mới mãn nguyện.
5. Ly si loạn hạnh (lìa mê loạn tâm): là Bồ-tát thường an trụ nơi chánh niệm để cho tâm không bị tán loạn. Bồ-tát đối với tất cả pháp môn đều thông minh sáng suốt.
6. Thiện hiện hạnh: (khéo thật hành công hạnh hiện tại) là Bồ-tát đã thanh tịnh được ba nghiệp cho nên biết rõ tận gốc rễ của các pháp hữu vi cùng các pháp vô vi, vì thế Bồ-tát không bị ràng buộc cũng như không chấp trước một pháp nào cả. Mặc dù tự tại đối với mọi pháp, Bồ-tát vẫn không bỏ công hạnh giáo hóa chúng sanh của mình.
7. Vô trước hạnh: là hạnh không nhiễm trước. Bồ-tát thật hành hạnh không nhiễm trước là thường trải qua các cõi Phật (trần sát Phật) để cúng dường và cầu pháp. Tâm thành cúng dường và cầu pháp của Bồ-tát không có chút nhàm chán. Mặc dù bận tâm trong công việc cúng dường và cầu pháp nơi các cõi Phật, Bồ-tát vẫn thường dùng trí tuệ tịch diệt để quán chiếu và nhận chân các pháp. Nhờ đó đối với các pháp môn, Bồ-tát vẫn không bao giờ khởi tâm nhiễm trước.
8. Tôn trọng hạnh: là Bồ-tát đều tôn trọng các pháp thuộc thiện căn phước đức cũng như các pháp thuộc trí tuệ giác ngộ. Theo như Bồ-tát, cả hai loại pháp môn nói trên đều có thể thành tựu được vô lượng công đức an lạc và giải thoát. Cho nên, Bồ-tát cần phải tiến tu gồm cả hai lợi hạnh là: hạnh tư lợi và hạnh lợi tha.
9. Thiện pháp hạnh: là Bồ-tát cần phải thành tựu cho được tất cả thiện pháp độ tha của bốn pháp môn vô ngại đà la ni để bảo hộ chánh pháp và khiến cho giống Phật không bị diệt mầm.
10. Chân thật hạnh: là sự thành tựu đệ nhất nghĩa đế. Đệ nhất nghĩa đế nghĩa là pháp môn có danh nghĩa chân thật thứ nhất. Đệ nhất nghĩa đế như là lời nói có thể thật hành và điều thật hành có thể diễn đạt, cũng như lời nói và hành động đều dung hợp với nhau, cho đến sắc và tâm đều hòa thuận tương đắc lẫn nhau. Đó là ý nghĩa của đệ nhất nghĩa đế.
Bồ-tát tu thập hạnh có bốn mục đích:
a. Nhàm chán các pháp hữu vi.
b. Mong viên thành quả bồ đề và hy vọng tròn đầy công đức Phật hạnh.
c. Ước mơ cứu độ chúng sanh trong đời hiện tại và đời vị lại.
d. Nguyện cầu thật tế là chứng ngộ được pháp nhất như chân thật của Phật.
Vì bốn lý do nêu trên, Bồ-tát mới phát tâm tu tập các hạnh. Sự quan hệ như thế nào giữa Bồ-tát và thứ bậc của thập hạnh?
Theo kinh luận, thập hạnh là một trong tam hiền, là tánh chủng tánh trong sáu chủng tánh (6) cũng gọi là tư lương vị trong năm ngôi vị của Bồ-tát.
MÃN THẬP HẠNH ÐẾN THẬP HỒI HƯỚNG
1. Cứu độ nhất thế chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng
2. Bất hoại hồi hướng
3. Ðẳng nhất thế Phật hồi hướng
4. Chí nhất thế xứ hồi hướng
5. Vô tận công đức tạng hồi hướng
6. Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng
7. Tùy thuận đẳng quán nhất thế chúng sanh hồi hướng
8. Chân như tướng hồi hướng
9. Vô phược giải thoát hồi hướng
10. Pháp giới vô lượng hồi hướng
Thập Hồi Hướng
Thập hồi hướng vị là một trong 50 ngôi vị tu tập của Bồ Tát, từ ngôi vị thứ 31 đến ngôi vị thứ 40. Bồ-tát phát khởi tâm thập hồi hướng với chủ ý là dùng tâm đại bi để cứu hộ tất cả chúng sanh. Thập hồi hướng vị gồm có:
1. Cứu hộ nhất thiết chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng: là hướng về sự xa lìa danh tướng chúng sanh để cứu hộ tất cả chúng sanh. Ý câu này nói Bồ-tát cứu hộ chúng sanh trong hành động vô tướng (trong hành động không phân biệt chấp trước). Bồ-tát ở ngôi vị này là áp dụng phương châm lục độ ba la mật và tứ nhiếp pháp để cứu hộ tất cả chúng sanh. Bồ-tát thật hành hạnh nguyện cứu hộ chúng sanh trong tinh thần bình đẳng đối với những kẻ thù oán cũng như đối với những người thân thương.
2. Bất hoại hồi hướng: là hướng về sự không hư hoại. Bồ-tát ở ngôi vị này là không làm mất tín tâm đối với Tam bảo. Bồ-tát hướng về thiện căn nơi đức tin tam bảo để giáo hóa và khiến cho chúng sanh được nhiều thiện lợi.
3. Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng: là hướng về những công tác mà Chư Phật trong ba đời đã làm. Bồ-tát ở ngôi vị này là theo gương hành động của Chư Phật trong ba đời bằng cách không nhiễm trước sinh tử và không rời Bồ đề tâm một bước để tu tập.
4. Chí nhất thiết xứ hồi hướng: là hướng về khắp tất cả chỗ. Bồ-tát ở ngôi vị này là đem bao nhiêu thiện căn đã tu tập được hướng về khắp tất cả Tam bảo và đến tất cả chúng sanh để cúng dường những lợi ích.
5. Vô tận công đức tạng hồi hướng: là hướng về kho tàng công đức không cùng tận. Bồ-tát ở ngôi vị này là hướng về tất cả thiện căn không cùng tận đã tu tập được tùy hỷ đem ra phụng sự Phật pháp.
6. Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng: là hướng về thiện căn để tùy thuận một cách bình đẳng. Bồ-tát ở ngôi vị này là vì Chư Phật trong mười phương nên hướng về những thiện căn đã tu tập được để bảo vệ chúng sanh một cách bình đẳng và khiến cho tất cả chúng sanh thành tựu kiên cố những thiện căn nói trên.
7. Tuỳ thuận đẳng quán nhất thiết chúng sanh hồi hướng: là tuỳ thuận hết thảy thiện căn đã tu tập được để hướng về quán chiếu tất cả chúng sanh. Bồ-tát ở ngôi vị này là làm tăng trưởng hết thảy thiện căn để hướng về làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
8. Như tướng hồi hướng: là hướng về nơi tướng chân như. Bồ-tát ở ngôi vị này là đem những thiện căn đã tu tập được hướng về hòa hợp với tướng chân như Phật tánh.
9. Vô phược vô trước giải thoát hồi hướng: là hướng về sự giải thoát không bị trói buộc và không chấp trước. Bồ-tát ở ngôi vị này là không còn bị trói buộc cũng như không còn chấp trước tất cả pháp. Do đó tâm của các vị đều được giải thoát hoàn toàn. Các vị Bồ-tát nói trên sở dĩ thành tựu những công hạnh vừa kể là nhờ hướng về các thiện pháp để thật hành hạnh nguyện phổ hiền, cho nên họ được đầy đủ tất cả hạt giống công đức.
10. Pháp giới vô lượng hồi hướng: là hướng về vô lượng pháp giới. Bồ-tát ở ngôi vị này là đem tất cả thiện căn không cùng tận đã tu tập được hướng về nguyện cầu cho vô lượng thế giới sai biệt đều được hết thảy công đức.
Thập hồi hướng trên đây thuộc về giải hạnh trụ, một trong 13 trụ. Thập hồi hướng này chính là tư lương vị, một trong 5 ngôi vị, (Tư lương vị, Gia hạnh vị, Thông đạt vị, Tu tập vị và Cứu cánh vị). Thập hồi hướng này còn là thuộc về đạo chủng tánh, một trong 6 chủng tánh và cũng là một ngôi vị hiền thứ ba trong tam hiền ở trước.
MÃN THẬP HỒI HƯỚNG ÐẾN TỨ GIA HẠNH
1. Noãn địa 2. Ðảnh địa 3. Nhẫn địa 4. Thế đệ nhất địa
TỨ GIA HẠNH
Pháp giới bình đẳng, tính đức được viên thành chỗ giác ngộ như Phật, tức lấy cái Phật Giác làm tâm mình. Diệt trừ các pháp nhỏ nhiệm, cũng như khi dùi cho ra lửa để đốt cái cây, vừa mới có hơi ấm, thì gọi là Noãn Địa.
Lấy cái tâm mình làm chỗ nương đứng của Phật, như lên chót vót núi cao, thân đã vào hư không mà bên dưới còn chút nương tựa làm ngăn ngại, thì gọi là Đảnh Địa.
Tâm và Phật đồng nhau, Tâm và Phật đều không thể phân biệt, không phải quên, không phải nhớ, khéo được Trung Đạo, gọi là Nhẫn Địa.
Mê, Ngộ bình đẳng, gọi là Trung Đạo và cả cái Trung Đạo không còn nữa, gọi là Thế Đệ Nhất Địa.
MÃN TỨ GIA HẠNH ÐẾN THẬP ÐỊA
1. Hoan hỷ địa
2. Ly cấu địa
3. Phát quang địa
4. Diệm huệ địa
5. Nan thắng địa
6. Hiện tiền địa
7. Viễn hành địa
8. Bất động địa
9. Thiện huệ địa
10. Pháp vân địa
THẬP ĐỊA
Thập địa vị nghĩa là mười địa vị tu tập của Bồ-tát với mục đích giữ gìn pháp bảo, nuôi dưỡng pháp bảo và khiến cho pháp bảo sớm được sanh trưởng để kết thành quả giác ngộ. Thập địa vị là kể từ ngôi vị thứ 41 cho đến ngôi vị thứ 50 trong quá trình tu tập hạnh Bồ-tát. Bồ-tát tu tập thập địa vị là bắt đầu bước lên bờ mé chứng ngộ, nghĩa là Bồ-tát đã phát sanh được trí tuệ vô lậu và nhận thấy được Phật tánh chân thật của mình, còn Bồ-tát đả trải qua xong thập địa vị là đã thành tựu được bậc thánh, tức là tăng trường được Phật trí để bảo hộ cũng như để giáo dưỡng cho tất cả chúng sanh trong vô lượng thế giới. Thập địa vị gồm có:
1. Hoan hỷ địa: (pramudità-bhùmi) cũng gọi là cực hỷ địa hay là duyệt dự địa. Hoan hỷ địa nghĩa là địa vị rất vui mừng (cực hỷ), rất an vui (duyệt dự). Bồ-tát ở ngôi vị này rất vui mừng là đã chứng được Phật tánh cũng như đã giác ngộ được hai nguyên lý nhân không và pháp không để làm lợi ích cho chúng sanh, nên gọi là hoan hỷ địa.
2. Ly cấu địa: (vimalà-bhùmi), cũng gọi là vô cấu địa hay là tịnh địa. Ly cấu địa là địa vị đã thoát ly hẳn bụi nhơ phiền não ô nhiễm (vô cấu) tâm bồ đề và được hoàn toàn thanh tịnh (tịnh địa). Bồ-tát ở ngôi vị này là đã tẩy sạch hết tất cả trần cấu phiền não ô nhiễm và giữ tâm bồ đề được hoàn toàn thanh tịnh, nên gọi là ly cấu địa.
3. Phát quang địa: (prabhàkarì-bhùi), cũng gọi là minh địa, hữu quang địa hay hưng quang địa. Phát quang địa nghĩa là địa vị phát sanh trí tuệ sáng suốt (hữu quang hay hưng quang địa). Bồ-tát ở ngôi vị này là nhờ đại thiền định nên phát sanh được trí tuệ sáng suốt mầu nhiệm vô biên, nên gọi là phát quang địa.
4. Diễm huệ địa: (arcismatì-bhùmi), cũng gọi là diễm địa, tăng diệu địa hay huy diệu địa. Diễm huệ địa nghĩa là địa vị phát sanh lửa trí tuệ (huy diệu) tăng thêm sáng suốt (tăng diệu). Bồ-tát ở ngôi vị này là phát huy trí tuệ tăng thêm sáng suốt lên mãi và phát huy cho đến khi nào lửa trí tuệ đó đã đốt sạch hết tất cả phiền não của vô lượng kiếp ở trong tâm bồ đề, nên gọi là diễm huệ địa.
5. Nan thắng địa: (sudurjayà-bhùmi), cũng gọi là cực nan thắng địa. Nan thắng địa nghĩa là địa vị này rất khó vượt qua (cực nan thắng). Bồ-tát ở ngôi vị này là đã thành công được những điều khó vượt qua. Hai trí tuệ thuộc chân đế và tục đế thì hoàn toàn trái ngược nhau. Thế mà Bồ-tát đã thắng được một việc rất khó khăn là khiến cho chúng nó hòa hợp với nhau thành một thể, nên gọi là nan thắng địa.
6. Hiện tiền địa: (abhimukhì-bhùmi), cũng gọi là hiện tại địa, mục kiến địa hay mục tiền địa. Hiện tiền địa nghĩa là địa vị hiện ra trước mặt có thể nhìn thấy được (mục kiến hay mục tiền địa). Bồ-tát ở ngôi vị này là phải giữ vững trí tuệ hữu phân biệt (trí tuệ thuộc loại có phân biệt) để soi sáng và phát khởi trí tuệ vô phân biệt của Phật (trí tuệ thuộc loại không có phân biệt) luôn luôn hiện ra trước mặt một cách rõ ràng, nên gọi là hiện tiền địa.
7. Viễn hành địa: (dùramgamà-bhùmi), cũng gọi là thâm hành địa, thâm nhập địa, thâm viễn địa hay huyền diệu địa. Viễn hành địa nghĩa là địa vị này đi rất xa, đi một cách sâu xa (thâm viễn), thâm nhập vào một nơi rất huyền diệu. Bồ-tát ở ngôi vị này là đã vượt qua khỏi một cách xa thẳm của hai đạo thế gian và xuất thế gian và đã đến một nơi vô tướng, nghĩa là Bồ-tát không còn bị ràng buộc bởi những hình thức công dụng cũng như tự tại trước những hình tướng tu hành khuôn mẫu nào cả, nên gọi là viễn hành địa.
8. Bất động địa: (acalà-bhùmi) nghĩa là địa vị không còn bị chuyển động. Bồ-tát ở ngôi vị này là nhờ vận dụng được trí tuệ vô phân biệt một cách liên tục cho nên không bao giờ bị lay chuyển bởi những phiền não cuốn trôi cũng như không bị biến động theo bởi những hình tướng, bởi những công dụng hấp dẫn của thế gian, nên gọi là bất động địa.
9. Thiện huệ địa: (sàdhumatì-bhùmi), cũng gọi là thiện tại ý địa hay thiện căn địa. Thiện huệ địa nghĩa là địa vị phát khởi trí tuệ một cách linh hoạt khéo léo (thiện tại ý). Bồ-tát ở ngôi vị này là nhờ phát chiếu trí tuệ một cách vi diệu và tự tại, cho nên đã thành tựu được bốn biện tài vô ngại để độ chúng sanh. Cũng nhờ thành tựu được bốn biện tài vô ngại, Bồ-tát thuyết pháp rất lưu loát, nói năng rất khéo léo và linh hoạt. Trong bất cứ trường hợp nào, Bồ-tát thuyết pháp không bao giờ bị vấp ngã, nên gọi là thiện huệ địa.
10. Pháp vân địa: (dharmameghà-bhùmi), cũng gọi là pháp vũ địa. Pháp vân địa nghĩa là mây pháp che khắp cả muôn loài chúng sanh cũng như mưa pháp tưới mát cả hằng sa quốc độ (pháp vũ). Bồ-tát ở ngôi vị này là đã chứng được pháp thân thanh tịnh và dùng đại trí kết hợp vô lượng nước công đức tạo thành đám mây đại pháp trong sạch che khắp cả vô lượng quốc độ và tươi mát cả muôn loài chúng sanh, nên gọi là pháp vân địa.
Bốn biện tài vô ngại nghĩa là bốn tài năng biện thuyết pháp rất lưu loát và thông suốt mà không bị chướng ngại. Bốn biện tài vô ngại gồm có:
A/- pháp vô ngại là tất cả pháp đều thông suốt.
B/- nghĩa vô ngại là tất cả nghĩa lý đều sáng tỏ.
C/- từ vô ngại là trình bày rất mạch lạc và văn pháp rất rõ ràng dễ hiểu.
D/- nhạo thuyết vô ngại là thuyết pháp mãi không bao giờ hết ý và hết lời.
Tóm lại, 50 ngôi vị tu tập đã được trình bày ở trên chính là những thứ bậc để định mức giá trị chứng đạo và trách nhiệm độ tha của một vị Bồ-tát. Một hành giả muốn thành một vị Bồ-tát thực thụ thì phải trải qua 50 ngôi vị công phu tu tập nói trên để hoàn thành nhiệm vụ là tự độ và độ tha, tự giác và giác tha. Trên con đường tu tập, một vị Bồ-tát phải hoàn thành cho xong từ thứ bậc một, phải bắt đầu từ thấp đến cao. Nghĩa là Bồ-tát phải khởi hành từ nhập môn của thập tín cho đến hoàn thành thánh quả của thập địa. 50 ngôi vị tu tập của Bồ-tát được chia làm năm thứ bậc:
1/- Thập tín: là thuộc về thứ bậc của Bồ-tát nhập môn. 2/- Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng: 30 ngôi vị này là thuộc về thứ bậc của Bồ-tát tam hiền. 3/- Thập địa: là thuộc về thứ bậc của Bồ-tát thánh nhân.
Đây là thứ bậc thấp cao qua quá trình tu chứng của 55 ngôi vị Bồ-tát.
(Khi mãn Thập địa đến địa vị Ðẳng Giác, qua Ðẳng Giác đến Diệu Giác tức là Phật. Trừ quả vị Càn huệ địa ra, thì từ địa vị Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh, Thập địa và Ðẳng giác, nghĩa là phải trải qua 55 địa vị này mới được quả Phật.
Song, trong khi trải qua 55 địa vị này, hành giả phải gặp 50 món ma là những điều nguy hiểm nhất trên đường tu hành).
50 MÓN MA CHƯỚNG (NGŨ ẤM MA)
Thuyết pháp gần xong, đức Như Lai đứng dậy, tay vịn ghế thất bửu, kêu Ngài A Nan và đại chúng dạy thêm rằng:
- Các ông chưa rõ trên đường tu hành, còn gặp nhiều cảnh ma rất là nguy hiểm. Nếu các ông không biết trước, sanh tâm tà kiến thì đọa vào ác đạo, cũng như người nhận lầm giặc làm con, thì bị hại chẳng ít. Vậy các ông phải chăm chú nghe, ta sẽ chín chắn chỉ dạy cho.
Này A Nan, tất cả chúng sanh cùng với người mười phương chư Phật, đồng một thể chân tâm thanh tịnh không hai. Bởi các ông bị vô minh vọng tưởng, nên sanh ra mười phương hư không và thế giới nhiều như vi trần, nhưng mười phương hư không và hằng sa thế giới đó đều sanh ở trong chân tâm của các ông, chẳng khác nào một điềm mây nhỏ sanh trong trời xanh. Nếu người ngộ được chân tâm rồi thì mười phương hư không và thế giới đều tiêu hết.
Bởi các loài ma kia thấy người tu hành sanh tâm lo sợ cho bà con quyến thuộc của chúng sẽ tiêu diệt, nên chúng dùng đủ thần lực đến nhiễu hại người tu. Chúng nó cũng đủ năm phép thần thông biến hóa chỉ chưa được lậu tận thông.
Mặc dầu chúng đủ năm phép thần thông và sức mạnh, song vẫn còn ở trong vòng trần lao; nếu các ông trong khi tu thiền tâm được thanh tịnh sáng suốt, không vọng động, thì chúng ma kia không làm sao hại được. Cũng như dao chặt xuống nước, gió thổi ánh sáng, hoàn toàn không dính líu gì. Chúng ma kia phải lần lần tiêu diệt như băng bị nước nóng chế vào và tối tăm bị ánh sáng phá trừ; chỉ lo một điều là các ông cũng như chủ nhà, nếu chủ nhà mê muội rồi thì các ma chướng kia như khách dễ bề nhiễu hại, rồi các ông trở làm con cái của ma, sau thành người ma.
Ma Ðăng Già là thứ ma yếu hèn, nó chỉ làm ông phá một giới trong tám muôn giới mà thôi, nhờ tâm ông thanh tịnh nên chẳng bị trầm luân. Còn các chúng ma này rất là nguy hiểm, nó phá tan giới thân huệ mạng làm cho ông nhiều kiếp luân hồi. Chẳng khác nào như ông quan lớn bị cách chức, gia tài sự sản bị tịch thâu, trở thành một người đân trắng, không thể cầu cứu với ai được.
10 Món Ma Về Sắc Ấm
1. THÂN THỂ KHÔNG BỊ CHƯỚNG NGẠI
Này A Nan, người trong khi tu thiền do sức dụng công, nên tâm tánh được nhiệm mầu sáng suốt, tự thấy thân thể mình trong giây phút qua lại tự tại, không bị cái gì làm chướng ngại. Vì công dụng tu luyện, nên tạm hiện ra các việc như vậy, không phải là chứng Thánh; nếu sanh tâm nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
2. LƯỢM BỎ TRÙNG ÐỘC TRONG THÂN
A Nan, hành giả trong lúc dụng công tu thiền, thoạt thấy thân thể mình trong suốt, các loài trùng độc, sên bò qua lại, rồi lượm bỏ ra ngoài mà thân không đau đớn. Vì dụng công tu luyện nên tạm hiện ra cảnh như vậy, không phải chứng Thánh. Nếu nghĩ mình chứng Thánh thì bị ma nó cám dỗ.
3. NGHE TRONG HƯ KHÔNG CÓ TIẾNG NÓI PHÁP
Hành giả trong lúc tu thiền, nghe trong hư không có tiếng thuyết pháp, hoặc nghe Thánh, Hiền, Tiên, Phật trong mười phương thế giới đều nói ra nghĩa lý nhiệm mầu. Ðây vì hành giả dụng công tu luyện nên tự tâm biến hiện ra cảnh giới như vậy, không phải chứng Thánh, nếu nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma ám ảnh.
4. THẤY PHẬT HIỆN VÀ HOA SEN NỞ
Người tu thiền định, khi tâm thanh tịnh rồi, tự phát ra ánh sáng. Lúc bấy giờ thấy mười phương đều hiện ra sắc vàng, tất cả các vật loại hóa thành Phật cả. Lại thấy đức Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài thiên quang, các đức Phật ngồi xung quanh và có vô số hoa sen đồng thời xuất hiện. Ðây do hành giả dụng công tu thiền, nên thấy có cảnh tạm hiện ra như vậy, không phải là chứng Thánh; nếu nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
5. THẤY CÁC VẬT BÁU ÐẦY CẢ HƯ KHÔNG
Người trong khi tu thiền thấy mười phương hư không đều thành bảy báu, nào màu xanh, sắc vàng, đỏ, trắng, hiện ra vô số, mà chẳng chướng ngại nhau. Ðây do trong lúc tu thiền, vì hành giả dụng công đè nén vọng niệm thái quá, nên nó biến hiện ra cảnh như vậy, không phải chứng Thánh; nếu nghĩa mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
6.THẤY BAN ÐÊM NHƯ BAN NGÀY
Người tu thiền định, do tâm yên tịnh nên phát ra ánh sáng. Lúc bấy giờ mặc dù nửa đêm, ở trong nhà tối mà vẫn thấy rõ hết cả mọi vật, không khác chi ban ngày. Vì hành giả dụng công tu luyện nên tạm hiện ra cảnh như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
7.THÂN THỂ KHÔNG BIẾT ÐAU
Người tu thiền đến khi tâm tánh được rỗng không, thì thân thể chẳng biết đau. Lúc bấy giờ lửa đốt không cháy, dao chặt không đau. Ðây do sức dụng tâm tu luyện của hành giả nên tạm được như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
8.THẤY CẢNH GIỚI PHẬT HIỆN KHẮP NƠI
Người tu thiền định do dụng công cùng tột, nên thấy mười phương núi sông toàn cả thế giới đều biến thành cõi Phật, đủ cả bảy món báu chiếu sáng khắp giáp. Lại thấy hằng sa chư Phật ở trong cung điện tốt đẹp hiện đầy cả hư không. Trông lên trên thì thấy các cung trời, xem trở xuống lại thấy hết các cõi địa ngục đều không có chướng ngại. Ðây do lúc tu thiền, vì hành giả ngưng vọng tưởng lâu ngày, nên nó hóa hiện như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị đọa vào đường tà.
9.BAN ÐÊM THẤY, NGHE ÐƯỢC PHƯƠNG XA
Trong khi tu thiền, do tâm tham cứu sâu xa, nên trong lúc giữa đêm thấy được nào là chợ bu`a, đường sá, bà con họ hàng ở các phương xa, hoặc nghe được tiếng nói. Ðây do hành giả kiềm thúc cái vọng tâm thái quá, nên tạm hiện ra như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị đọa vào đường tà.
10.THÂN HÌNH BIẾN HÓA, NÓI PHÁP THÔNG SUỐT
Trong khi tu thiền, do hành giả dụng tâm tham cứu cùng tột, nên thấy có các vị Thiện tri thức, chỉ trong giây phút mà thân mình biến hóa nhiều cách. Ðây do trong khi tu thiền vì hành giả sanh tâm chấp trước, nên bị ma ám ảnh, làm cho người này thông suốt nghĩa mẩu, nói pháp vô ngại, không phải chứng Thánh; nếu chẳng chấp trước thì cảnh ma này lần lần tiêu; còn cho mình chứng Thánh thì bị đọa vào cảnh ma.
TÓM LẠI
Này A Nan! Mười cảnh ma này, đều do trong lúc tu thiền, hành giả dụng tâm phá trừ sắc ấm, nên nó biến hiện ra các cảnh như vậy. Nếu khi gặp những cảnh ấy, mê lầm không biết, cho mình đã chứng Thánh thì bị ma nó ám ảnh, rồi sanh đại vọng ngữ, nói mình thành đạo chứng quả v.v... sau khi chết rồi đọa vào địa ngục vô gián. Vậy khi ta nhập diệt rồi, các ông nên y lời ta dạy, đem những việc ma này giảng dạy cho người tu hành đời sau, bảo hộ người tu hành đặng đạo quả, chớ để cho họ bị thiên ma nhiễu hại.
10 MÓN MA VỀ THỌ ẤM
1. Thấy loài vật, thương khóc.
Này A-Nan, người tu thiền-định khi phá trừ sắc ấm rồi, tâm trí sáng suốt; do hành giả dụng công dãn ép các vọng tưởng thái quá, nên phát sanh lòng thương xót các loài vật vô cùng, cho đến thấy loài mòng muỗi, thương cũng như con ruột, thương cho đến nỗi sa nước mắt khóc ròng. Nếu hành giả giác ngộ thì cảnh ấy lần lần tiêu hết, không có hại chi; còn mê lầm không biết, thì bị ma sầu bi ám ảnh vào tâm, rồi thấy người tự khóc ròng, tâm mất chánh định, sau khi chết rồi đọa vào cảnh ma.
2. Chí dũng mãnh bằng Phật.
Này A-Nan, người tu thiền định khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, thấy có nhiều điều linh ứng và những cảnh tốt đẹp hiện ra. Vì trong lòng cảm khích thái quá, nên hành giả phát tâm đại dũng mãnh, lập chí đồng với chư Phật, quyết tu một đời cho thành Phật, không chịu trải qua ba vô số kiếp. Nếu hành giả giác ngộ thì cảnh ấy lần lần tiêu diệt; còn mê lầm không biết, cho mình chứng Thánh thì bị ma nhập tâm, thấy người hay khoe khoang hống hách, ngã mạn không ai bằng, cho đến trên thấy không có Phật, dưới thấy không có người, mất chánh định, sau khi chết rồi bị đọa vào ác đạo.
3. Tâm nghĩ tưởng khô khan.
Lại nữa, người tu thiền định, khi địa vị cũ đã qua khỏi, địa vị mới chưa chứng, lúc ấy bơ vơ giữa chừng, vì trí lực suy kém, nên trong tâm sanh ra rất khô khan, tất cả thời, nhớ nghĩ vẫn vơ, rồi tự cho đó là tinh tấn. Ðây vì trong lúc tu thiền, không có trí tuệ sáng suốt để phán đoán. Nếu hành giả hiểu biết thì không có hại; còn mê lầm không biết, cho mình chứng Thánh thì bị ma ám ảnh vào tâm, sớm chiều bốc quăng trái tim của mình, mất chánh định, chết rồi đọa vào ác đạo.
4. Ðặng chút ít cho là đầy đủ.
Người tu thiền định khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, vì dùng huệ nhiều hơn định, mất sự thăng bằng, nên gặp những cảnh thù thắng hiện ra, sanh lòng nghi ngờ cho là đức Tỳ Lô Giá Na Phật, mới đặng chút ít cho là đầy đủ. Nếu hành giả hiểu biết thì không có hại; còn mê lầm không biết cho mình chứng Thánh, thì bị ma ám ảnh, khi gặp người tự xưng: “Ta đặng đạo Vô Thượng Bồ đề”, sẽ mất chánh định, sau đọa vào đường ma.
5. Tâm buồn rầu vô hạn.
Người tu thiền định, khi cảnh cũ đã mất, địa vị mới chưa chứng, tự thấy bơ vơ; gặp cảnh gian nan nguy hiểm, sanh tâm buồn rầu vô hạn, như ngồi trên chông sắt, như uống thuốc độc, tâm chẳng muốn sống, thường cầu xin người giết giúp thân mạng mình, đặng sớm giải thoát. Ðây là do trong khi tu hành, hành giả thiếu phương tiện để bước qua những cảnh ấy. Nếu liễu ngộ thì không hại; còn mê lầm chẳng biết, hành giả cho mình chứng Thánh, thời bị ma ưu sầu ám ảnh, rồi tự cầm gươm đao lóc lấy thịt mình, ưa bỏ thân mạng, thường hay lo rầu hoặc vào ở núi non rừng rú, không muốn thấy người, mất tâm chánh định, sau chết rồi đọa vào đường ma.
6. Vui cười không thôi.
Người tu thiền định khi tâm được thanh tịnh an ẩn rồi, bỗng nhiên sanh ra vui mừng vô hạn không thể ngăn được. Nếu hiểu biết thời không hại; còn mê lầm cho mình chứng Thánh, thì bị ma nhập vào tâm phủ, thấy người cười hoài, đi trên đường sá một mình ca múa, tự cho rằng: “Ta đã đặng vô ngại giải thoát”, mất chánh định, sẽ đọa vào đường tà.
7. Sanh đại ngã mạn.
Ngưòi tu thiền định, khi thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, tự cho mình được như thế là đầy đủ rồi, sanh tâm đại ngã mạn, đối với mưòi phương Chư Phật còn khinh khi, huống hồ là Thanh văn, Duyên giác. Nếu hiểu ngộ thì chẳng hại; còn hành giả mê lầm không biết cho là chứng Thánh, thì bị ma đại ngã mạn nó nhập tâm, không lạy Phật Tổ, hủy hoại kinh tượng Phật. Hạng người ấy thường nói với tín đồ rằng: “Phật bằng cây, đất, đồng, chì; còn kinh tượng là giấy mực, có gì mà kính lạy; nhục thân này mới là chân thật thường còn, sao chẳng cung kính, thật là điên đảo”. Tín đồ nghe rồi tin theo, đốt kinh chôn Phật. Người làm cho chúng sanh nghi lầm như thế, sau khi chết rồi bị đọa vào địa ngục vô gián.
8. Tâm sanh khinh an.
Người tu thiền định, khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, trong tâm sanh ra vô lượng khinh an, rồi tự cho mình đã chứng Thánh, đặng đại tự tại. Nếu hành giả hiểu biết thì không hại; còn mê lầm không biết thì bị ma nhập tâm, rồi tự cho mình đã đầy đủ, không cần tu tính tấn, mất chánh định, sau khi chết rồi bị đọa vào đường tà.
9. Chấp không.
Người tu thiền định, khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, trong tâm rỗng sáng, rồi sanh ra chấp đoạn diệt, bác không nhân quả, không tội phước, tất cả đều không. Nếu hành giả hiểu biết thời không sao, còn mê lầm không biết chấp mình chứng Thánh thì bị ma nhập tâm, rồi chê bai người trì giới cho là tu hạnh tiểu thừa, tự xưng mình là Bồ tát ngộ chân lý không rồi, không còn trì giới và phạm giới nữa, vẫn ăn thịt uống rượu làm những việc tà dục. Do thần lực của ma, nó làm cho tín đồ say mê, thương yêu cung phụng, luôn luôn trung thành, chẳng sanh lòng nghi ngờ hủy báng. Vì ma nhập lâu ngày làm cho điên, đến đỗi ăn uống những đồ nhơ uế, mà cho cũng như là uống rượu ăn thịt, phá các giới cấm của Phật, hoàn toàn chấp không, làm mất chánh kiến của mình, sau khi chết rồi bị đọa vào đường tà.
10. Vì quá tham ái nên sanh ra cuồng.
Người tu thiền định, khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, sanh ra vô cùng ái dục, đến đỗi phát cuồng. Nếu hành giả giác ngộ thì cảnh đó hết dần, còn mê lầm không biết cho là chứng Thánh, thì bị ma nhập tâm, rồi khuyến hóa người đời bình đẳng hành dục; bảo họ rằng: “hành dục là đạo Bồ đề, người hành dâm dục là kẻ duy trì chánh-pháp”. Do thần lực của ma làm cho người cuồng kia chinh phục được cả ngàn muôn người, đến chừng ma nhàm chán, bỏ người tu thiền kia rồi, lúc bấy giờ hành giả không còn oai đức gì nữa, bị luật nước giam cầm, đến khi lâm chung đọa vào địa ngục vô gián.
TÓM LẠI
A-Nan, mười cảnh ma này, đều do trong lúc tu thiền, hành giả dụng tâm phát trừ thọ ấm, nên tự hiện ra các cảnh như vậy. Nếu hành giả mê lầm không biết, cho rằng chứng Thánh, thì bị ma dựa vào, làm nhiễu hại đến chết; chết rồi đọa vào địa-ngục vô-gián. Sau khi ta nhập diệt, các ông nên đem lời ta dạy đây mà truyền dạy cho chúng sanh đời sau, bảo hộ người tu hành được thành đạo Bồ đề, chớ để cho họ gặp các loài ma chướng làm hại, mà phải bị đọa vào ácđạo.
10 MÓN MA VỀ TƯỞNG ẤM
1. Tham cầu diệu dụng.
A-Nan, người tu thiền định, khi phát minh được diệu định rồi, lại khởi tâm tham cầu những việc diệu dụng và linh nghiệm. Khi đó Thiên ma được biết, gặp dịp thuận tiện, nên xuất hồn nhập vào người, mà người bị nhập kia lại không biết, tự cho mình đặng đạo Vô Thượng Niết Bàn, cũng thường nói ra Kinh pháp. Trong giây phút, thân hình người bị nhập kia, biến hiện ra ông thầy, ni cô, vị Ðế Thích hay người phụ nữ v.v..., hoặc ở trong nhà tối, từ nơi thân họ chiếu ra hào quang ánh sáng. Người đời lầm cho là Bồ tát thật, rồi tin nghe theo lời ma giáo hóa, sanh tâm buông lung, phá giới luật của Phật, lén làm việc tham dục. Người này ưa nói những điềm tai biến lạ lùng, hoặc nói chỗ kia có Phật ra đời, năm nào nổi đao binh giặc giã, năm nào có hỏa hoạn v.v… khủng bố tinh thần dân chúng, khiến cho người hao tài tốn của. Ðến khi ma kia nhàm chán bỏ đi, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị giam cầm. Các ông nếu biết trước thời khỏi vào luân hồi; còn mê lầm không biết thì đọa vào ác đạo.
2. Tham cầu du ngoạn.
A-Nan, hành giả khi tu thiền, trong tâm muốn xuất thần dạo chơi. Lúc bấy giờ Thiên ma Ba tuần hiểu biết, được dịp thuận tiện nhiễu hại, nên nó xuất hồn nhập vào người, mà người bị nhập kia lại không biết, tự nói mình đặng đạo Vô thượng Niết bàn, miệng cũng nói kinh pháp thông suốt, làm cho những người nghe đều tự thấy thân mình hóa ra sắc vàng sáng rỡ, ngồi trên tòa sen báu, đặng những điều chưa từng có. Người đời lầm tưởng là Bồ tát thị hiện. Người bị ma nhập kia lại dạy người phá giới luật của Phật, âm thầm làm việc tham dục, miệng ưa nói chuyện chư Phật giáng thế, như: ở xứ kia, ông đó là đức Phật nào thị hiện. Người nọ là vị Bồ tát chi thị-hiện v.v… làm cho ngưòi thấy, nghe sanh lòng khao khát, tâm tà kiến thêm mạnh, giống trí tiêu mòn. Ðến lúc ma kia nhàm chán bỏ đi, thì thầy trò người bị ma nhập ấy đều bị bắt cả.
Các ông nếu sớm giác ngộ thì khỏi vào luân hồi; còn mê lầm không biết thì bị đọa vào địa ngục.
3. Cầu ngộ chân lý.
Lại nữa, người tu thiền định, trong tâm tham cầu ngộ chân lý. Lúc bấy giờ Thiên ma Ba tuần biết được ý muốn, nên xuất hồn nhập vào người, mà người tự không biết, cho rằng ta đặng đạo Vô thượng Niết bàn, miệng cũng nói kinh pháp, làm cho thính giả tuy chưa nghe pháp, mà tâm tự khai ngộ, biết được việc nhiều đời trước, hoặc biết rõ được tâm tánh người, hoặc thấy cả cảnh địa ngục, biết trước những họa phước ở nhân gian, miệng tự đọc kinh hay nói kệ, mỗi người đều tự vui mừng, cho là đặng những việc chưa từng có. Người đời mê lầm cho là Bồ tát thị hiện. Ma kia lại ưa nói: “Phật có lớn nhỏ, Phật thiệt, Phật giả, Phật nam, Phật nữ, đức Phật kia là đức Phật trước, đức Phật nọ là đức Phật sau; Bồ tát cũng vậy”, làm cho người mất chánh tín lại sanh tà kiến, tâm tánh buông lung, phá giới luật của Phật, lén làm việc tham dục. Ðến khi chúng ma kia sanh tâm nhàm chán bỏ đi, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị bắt. Các ông biết trước thời khỏi bị luân hồi; còn mê lầm tin theo thời đọa vào địa ngục.
4. Móng tâm muốn biết nguồn gốc của muôn loài.
Lại nữa, người tu thiền định, khi ở trong định, móng tâm muốn biết cùng tột căn nguyên của muôn vật, thỉ chung sanh hóa thế nào. Khi đó Thiên ma hiểu biết ý muốn, gặp dịp thuận tiện để khuấy nhiễu, nên xuất hồn đến nhập cho người, mà người bị nhập kia lại không biết, cho mình đặng đạo Vô thượng Niết bàn, cũng thường nói kinh pháp. Chúng ma kia dùng oai thần nhiếp phục quần chúng, làm cho thính giả tuy chưa nghe pháp mà trong lòng đã tự kính phục. Chúng ma nói: “Thân thịt hiện tiền đây là Bồ đề Niết bàn, là Pháp thân của Phật”. Chúng ma lại nói: “Cha cha con con tiếp nối sanh nhau, đó là Pháp thân thường trụ bất diệt”. Và thường nói: “Mắt, tai, mũi, lưỡi là cảnh tịnh độ, nam căn và nữ căn tức là Bồ đề Niết bàn”. Nhưng người mê lầm không biết tưởng là Bồ tát thị hiện, tin tưởng quy y theo, cho là một đấng hy hữu chưa từng có. Mất tâm chánh tín, phá giới luật của Phật, âm thầm làm hạnh tham dục. Ðến lúc ma kia nhàm chán bỏ đi rồi, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị bắt cả. Các ông nếu biết trước thì khỏi bị luân hồi, còn mê lầm tin theo thời bị đọa vào địa ngục vô gián.
5. Tham cầu cảm ứng linh nghiệm.
Người tu thiền định vì móng tâm tham cầu sự cảm ứng linh nghiệm, nên Thiên ma biết được ý muốn, nó xuất hồn đến gá vào người, mà người kia không biết, tự cho mình đặng đạo Vô thượng Niết bàn, cũng thường nói kinh pháp. Ma lại dùng thần lực khiến cho những người nghe pháp đều thấy thân thể người bị nó nhập kia già nua như người trăm ngàn tuổi sanh lòng thương mến, đêm ngày hầu hạ không biết mỏi-mệt, và tứ sự cúng dường. Nó lại làm cho người người kính-trọng là vị Tiên sư hay Thiện tri thức. Ðối với người, nó ưa nói việc huyền ảo như: “Ðời trước ta tế độ người kia, người nọ. Ðời trước người kia là anh em hay vợ con của ta, đời nay ta tế độ, để cùng nhau sẽ sanh về thế giới kia và cúng-dường Đức Phật nọ”; hoặc nói: “Có cõi Trời Ðại quang minh, tất cả các đức Phật đều ở đó”. Những ngưòi mê muội không biết, lầm cho là Bồ tát thị hiện, tin tưởng kính trọng vô cùng, mất tâm chánh tín, phá giới luật của Phật, âm thầm làm việc tham dục. Ðến khi chúng ma kia sanh tâm nhàm bỏ, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị bắt. Các ông biết trước thời khỏi vào luân hồi, còn tin tưởng nghe theo thì đọa vào địa ngục vô gián.
6. Tham cầu ở chỗ vắng vẻ u tịch.
Người tu thiền định, khép mình nơi khổ hạnh, tham cầu ở chỗ vắng vẻ tịch mịch. Khi đó Thiên ma Ba tuần biết được ý muốn, nên xuất hồn nhập vào người, mà người kia không biết, cho mình chứng đạo Vô thượng Niết bàn, cũng thường hay nói pháp. Ma dùng thần lực khiến cho các người nghe đều biết được đời trước của mình. Hoặc trong chỗ đông người, nó chỉ một người nào đó nói rằng: “Người này chưa chết, mà đã thành súc sanh”. Nói rồi, ma nó bảo một người khác đạp cái đuôi, thì người kia biến thành súc sanh, đứng dậy không được, làm cho đồ chúng hết sức kính phục. Có ai vừa móng tâm niệm gì, thì ma nó liền biết và nói ra ngay. Ngoài giới luật của Phật, chúng còn giữ thêm những điều khổ hạnh, phỉ báng các thầy Tỳ-kheo, mắng nhiếc tín đồ, làm tiết lộ bí mật của người mà không sợ người hiềm ghét, thường nói những việc họa phước sắp đến, không sai một mảy. Ðến lúc ma kia nhàm bỏ rồi, thì thầy trò bị ma nhập đều bị bắt. Các ông biết trước thời không vào luân hồi; còn mê mờ tin theo thì đọa vào địa ngục vô gián.
7. Tham cầu biết kiếp người.
Người trong khi tu thiền định, móng tâm tham cầu biết kiếp trước của mình. Khi đó Thiên ma hiểu biết, gặp dịp thuận tiện, nên xuất hồn nhập vào người, mà người bị nhập kia không biết, tự cho mình đặng đạo Vô thượng Niết bàn, cũng thường nói Kinh pháp, hoặc làm cho người tình cờ đặng châu báu. Nó hóa ra một con vật ngậm hột châu hay những vật kỳ quái đem đến đưa cho người. Nó chỉ ăn rau rác đơn sơ, không dùng đồ ngon quí, có khi mỗi ngày chỉ ăn một hột mè, hột bắp, mà thân hình vẫn mập tốt. Chúng thường nói: “Xứ kia có kho báu, chỗ nọ có các vị Thánh Hiền ẩn”. Chúng là cho người thấy những điều kỳ dị, hoặc nói những việc tham dục, phá giới luật của Phật, âm thầm làm hạnh dâm dục. Ðến khi ma kia nhàm bỏ rồi, thầy trò người bị nhập đều bị bắt cả. Các ông biết trước thì khỏi vào luân hồi; còn mê lầm tin theo, thì đọa địa ngục.
8. Tham cầu thần thông.
Người tu thiền định, móng tâm muốn được thần thông biến hóa. Khi đó Thiên ma liền biết, nên xuất hồn nhập cho người, mà người không biết, tự cho rằng: “Ðặng đạo Vô thượng Bồ đề”. Miệng nói kinh pháp và một tay cầm lửa, một tay rứt ánh sáng phân phát để trên đầu của thính giả. Mỗi người đều thấy trên đầu có ánh sáng dài đến vài thước, mà chẳng biết nóng; hoặc đi trên nước hay ngồi trên hư không vẫn tự tại; hoặc vào trong bình, vô trong đãy (bọc), đi ngang qua vách tường, mà không bị chướng ngại. Chỉ trừ khi đối với binh đao, thì họ không tự tại. Họ tự xưng là Phật mà thân mặc đồ thế gian, thọ các thầy Tỳ kheo lễ bái, chê bai người tham thiền và trì giới, mắng nhiếc đồ chúng, làm tiết lộ việc nhà người mà không sợ người hiềm giận. Họ thường nói với người: “Ta đã đặng thần thông tự tại”; hoặc làm cho người thấy được cõi Phật (ma hiện ra cõi Phật) đem những điều dở hèn làm việc truyền đạo và khen ngợi việc hành dục. Ðến lúc ma nhập kia nhàm bỏ, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị bắt cả. Các ông biết trước thời khỏi vào luân hồi; còn mê lầm tin theo thời đọa vào địa ngục vô gián.
9. Tham cầu không không.
Người khi tu thiền định, tâm ưa nhập diệt, tham cầu không không. Khi ấy Thiên ma liền biết, đặng dịp thuận tiện, nên xuất hồn nhập cho người, mà người kia chẳng biết, tự cho mình đặng đạo Vô thượng Niết bàn, miệng nói Kinh pháp. Hoặc ở trong chỗ đông người, người ấy tự biến mất, không ai thấy được, rồi tình cờ từ trên hư không hiện ra, khi ẩn khi hiện thần diệu vô cùng, hoặc hiện thân trong suốt như ngọc lưu ly, khi duỗi tay chân ra thì thơm nực mùi hương chiên đàn, chê bai giới luật, hủy báng người xuất gia, bác không có nhân quả, cho rằng chết rồi mất hẳn, không có đầu thai, âm thầm làm việc tham dục, khiến cho những người thọ dục, cũng chấp không có nhân quả tội phước v.v… Ðến lúc ma nhàm bỏ, thì thầy trò người phải ma nhập kia đều bị bắt cả. Các ông biết trước thời khỏi vào luân hồi; còn mê lầm không biết thì đọa vào địa ngục vô gián.
10. Tham cầu sống lâu.
Người tu thiền định, móng tâm tham cầu sống lâu. Lúc bấy giờ Thiên ma hiểu biết, xuất hồn nhập vào người, mà người tự không biết, nói mình đặng đạo Vô thượng Niết bàn, miệng thường nói Kinh pháp và đi qua lại các thế giới được tự tại không ngăn ngại; mặc dù đường xa muôn dặm, nhưng đi trong nháy mắt đã trở về đến chỗ, lại lấy những vật ở phương xa kia đem về làm tin. Hoặc ở trong một căn nhà nhỏ, nó bảo người đi thiệt mau, từ vách bên này qua vách bên kia, đi mấy năm cũng không đến; hoặc thường nói: “Chúng sanh trong mười phương đều là con của ta, ta sanh ra Chư Phật, ta sanh ra thế giới, ta là Phật đầu tiên tự nhiên có, chẳng nhân tu hành mà được”; hoặc ngồi nói lầm thầm một mình như người cuồng, khiến cho người đời tin tưởng là Phật thiệt.
Các ông biết trước thì khỏi bị luân hồi; còn mê lầm tin theo thời đọa vào địa ngục vô gián.
TÓM LẠI
A-Nan, mười món ma tưởng ấm này, ở trong đời Mạt pháp, sẽ giả làm người xuất gia tu hành trong đạo của ta, hoặc nhập cho người, hoặc tự hiện hình, đều tự xưng rằng: “Ðã chứng quả Phật”. Chúng khen ngợi việc dâm dục, phá giới luật của Phật. Ma thầy, ma trò cùng nhau truyền dạy, làm hại cho người đến nhiều đời lắm, khiến người chân tu mất chánh kiến, bị đọa làm bà con quyến thuộc của ma.
Các ông ngày nay đã được độ ra khỏi sanh tử luân hồi rồi, vậy các ông phải khởi lòng đại từ bi, không nên nhập diệt sớm, phải nguyện ở lại đời Mạt pháp để cứu độ những người chân chánh tu hành đời sau, khỏi bị ma nhiễu hại.
Các ông tuân theo lời Ta dạy đây, mới gọi là đền đáp ơn Phật. Các ông gắng bảo hộ người tu hành, nên đem lời nói của ta đây truyền dạy cho chúng sanh đời sau, khiến cho họ hiểu rõ các việc ma, để khỏi bị Thiên ma nhiễu hại và mau được thành đạo Vô thượng.
10 MÓN MA VỀ HÀNH ẤM
1. Chấp không nguyên nhân sanh.
A-Nan, người tu thiền định khi tưởng ấm hết rồi, thì tâm được minh chánh, không còn khởi các vọng tưởng tham muốn như trên, nên các Thiên ma không gặp dịp thuận tiện để nhiễu hại nữa. Lúc bấy giờ hành giả tự nghiên cứu nguồn gốc của muôn loài, rồi sinh ra hai lối chấp:
a) Vì chỉ thấy biết được chúng sanh từ tám vạn kiếp trở lại, ngoài tám vạn kiếp thì mù mịt không thấy biết, nên sanh ra chấp: “Chúng sanh từ tám vạn kiếp trở lại tự nhiên có, không có nguyên nhân sinh”.
b) Hành giả nghiên cứu chỉ thấy người sanh người, chim sanh ra chim, quạ từ hồi nào đến giờ vẫn đen, không phải do nhuộm mà được, cò từ hồi nào tới giờ vẫn trắng, không phải do rửa mới trắng v.v… từ tám vạn kiếp đến nay đã vậy, thì từ đây về sau cũng thế. Hành giả tự nghĩ ta từ hồi nào đến giờ không thành Bồ đề, thì về sau đâu lại có thành Phật, rồi khởi ra tà chấp: “Các vật tượng ngày nay đều không có nguyên nhân”. Bởi mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh tri kiến, sanh ra hai lối chấp trên, đều đọa về ngoại đạo.
2. Bốn món chấp thường.
A-Nan, người tu thiền định, khi tưởng ấm hết rồi, tâm được minh chánh, nên ngoại ma không còn thuận tiện để nhiễu hại được. Khi đó hành giả tham cứu cùng tột cội gốc của muôn loài, khởi ra bốn món chấp thường:
1. Chấp hai vạn kiếp thường. - Vì hành giả nghiên cứu cùng tột cả tâm và cảnh đều vô nhân, vì sức tu chỉ biết được chúng sanh sanh diệt xoay vần từ hai vạn kiếp trở lại không mất, nên chấp cho là thường.
2. Chấp bốn vạn kiếp thường. - Hành giả tham cứu cùng tột tánh của tứ đại thường còn, do sức tu tập chỉ biết được chúng sanh từ bốn vạn kiếp trở lại, tuy có sanh diệt, mà bản thể nó vẫn thường còn không mất, nên chấp là thường.
3. Chấp tám vạn kiếp là thường. - Hành-giả tham cứu cùng tận tám thức, thấy nó thường hằng. Vì thấy từ tám vạn kiếp trở lại chúng sanh xoay vần không mất, nên chấp là thường.
4. Chấp cái không sanh diệt là thường. - Người tu thiền định khi các tưởng ấm sanh diệt đã hết, nhân đó khởi tâm chấp cái không sanh diệt là thường.
A-Nan, người tu thiền định, do mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ đề, khởi ra bốn món chấp thường trên, nên đều đọa về ngoại đạo.
3. Chấp một phần thường, một phần vô thường.
Người tu thiền định, khi tưởng ấm hết, nghiên cứu cùng tột cội gốc của sanh loại, rồi khởi ra bốn lối chấp điên đảo:
1. Chấp tâm là thường, chúng sanh vô thường. - Hành giả khi quán tâm mình yên lặng khắp cả mười phương, các chúng sanh từ trong tâm mình tự sanh và tự chết, rồi chấp tâm ta là thường, chúng sanh vô thường.
2. Chấp thế giới, những chỗ bị hoại là vô thường, những chỗ không hoại là thường. - Người tu thiền định quán sát cả mười phương thế giới, chỗ kiếp hoại (như từ tam thiền trở xuống bị tam tai làm hoại) thì chấp vô thường; những chỗ không hoại thì chấp là thường (từ tứ thiền trở lên, tam tai không làm hoại được, chấp cho là cứu cánh Niết-bàn).
3. Chấp cái tâm là thường, còn sanh tử vô-thường. - Người tu thiền định, quán sát tâm mình không biến đổi, nó nhỏ nhiệm tinh vi như hạt bụi và lưu chuyển cả mười phương, lại khiến cho thân này sanh và diệt mà nó không không biến đổi; nên chấp cho: “Tâm là thường; tất cả các vật đều từ tâm sanh ra, có sanh tử nên vô thường”.
4. Chấp hành ấm thường; sắc, thọ, tưởng là vô thường. - Người tu thiền định, khi thấy sắc, thọ, tưởng ba ấm trước đã diệt, nên chấp là vô thường, thấy hành ấm lưu chuyển thường còn nên chấp là thường.
Bốn lối chấp trên, đều sai lầm cả, do mê muội tánh Bồ đề, mất chánh kiến, nên đọa về ngoại đạo.
4. Chấp có bốn món biên giới.
Người tu thiền định, khi tưởng ấm hết rồi, thấy được cùng tột cội gốc của sanh loại, lúc bấy giờ khởi ra bốn lối chấp có biên giới:
1. Chấp ba đời. - Người tu thiền định, lúc bấy giờ chấp tâm niệm hiện tại tương tục (hành ấm) là vô biên, còn quá khứ và vị lai là hữu biên.
2. Chấp chúng sanh. - Người tu thiền định vì chỉ thấy được chúng sanh trong tám vạn kiếp, nên chấp là hữu biên; còn trước tám vạn kiếp thì tịch mịch không thấy và cũng không nghe, nên chấp là vô biên.
3. Chấp tâm tánh. - Người tu thiền định khi thấy tâm mình biến khắp và biến ra tất cả người, nên khởi lên chấp tâm ta vô biên. Còn tất cả người đều ở trong tâm ta, là hữu biên.
4. Chấp sanh diệt. - Người tu thiền định, khi cùng tột hành ấm, thấy được tâm mình, sanh tâm chấp tất cả chúng sanh và thế giới đều có phân nửa sanh và phân nửa diệt; sanh là hữu biên, diệt là vô biên.
Các lối tà chấp trên, đều do trong khi tu thiền mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ đề, nên đều đọa về ngoại đạo cả.
5. Bốn món luận nghị rối loạn, không nhất định.
Người tu thiền định, khi tưởng ấm hết, liền khởi ra bốn lối chấp điên đảo không nhất định:
1. Chấp tám món cũng. - Người tu thiền định, khi quán sát nguồn gốc biến hóa của muôn vật, thấy có chỗ thì biến đổi, có chỗ lại thường còn; có cái sanh, có cái diệt; có pháp tăng, có vật giảm, có cái có, có cái không. Bởi thế nên có ai đến hỏi đạo thì nói rằng: “Cũng biến, cũng bằng, cũng sanh, cũng diệt, cũng tăng, cũng giảm, cũng có, cũng không”. Lúc nào cũng nói rối loạn như vậy, làm cho người không hiểu chi cả.
2. Chấp duy cái “không”. - Người tu thiền định, vì quán cả tâm và pháp đều không; rồi cứ chấp ở nơi cái “không”. Có ai đến hỏi đạo thì họ chỉ đáp một chữ “không”; ngoài cái “không” ra thì không còn chi nói nữa cả.
3. Chấp duy cái “có”. - Người tu thiền định, do quán sát tâm mình biến khắp tất cả, chỗ nào cũng có, rồi cứ chấp ở nơi cái “có”. Có ai đến hỏi đạo, thì họ chỉ nói một chữ “có”; ngoài cái “có” ra thì không còn gì nói nữa cả.
4. Chấp “cũng có” và “cũng không”. - Người tu thiền định vì thấy ở nơi cảnh đã lăng xăng, còn tâm thì rối loạn, nên có người đến hỏi đạo thì đáp rằng: “Cái cũng có” cũng tức là “cái cũng không”; trong cái “cũng không” cũng tức là cái “cũng có”. Lúc nào họ cũng nói rối loạn như vậy, không ai gạn cùng được.
Người tu thiền định vì mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ đề, khởi ra các lối chấp như vậy, nên đều đọa về ngoại đạo.
6. Chấp mười sáu tướng có.
Người tu thiền định khi tưởng ấm hết, chỉ còn hành ấm diệu động, thấy một nguồn sống vô tận; nên sanh tâm chấp cho “chết rồi còn có tướng”.
Chấp về sắc uẩn có bốn:
1. Chấp sắc uẩn là “ta”.
2. Chấp “ta” có sắc uẩn.
3. Chấp sắc uẩn thuộc nơi “ta”.
4. Chấp “ta” ở nơi sắc uẩn.
Còn thọ, tưởng, hành mỗi uẩn cũng đều có bốn lối chấp như vậy, cộng thành mười sáu tướng. Hoặc chấp phiền não và Bồ đề hai tánh thật có, hết phiền não mới được Bồ đề; hai tánh không chung gặp nhau.
Vì hành giả trong lúc tu thiền, mất chánh tri kiến, mê mờ tánh Bồ đề, khởi ra các lối tà chấp trên, nên đọa về ngoại đạo.
7. Chấp tám món vô thường.
Người tu thiền định khi sắc, thọ, tưởng đã diệt rồi, lúc bấy giờ thấy thân hình hiện tiền đây còn không thật có, thì khi chết rồi làm gì lại có các hình tướng. Vì so sánh như vậy, nên chấp chết rồi không có hình tướng.
Chấp sắc ấm như vậy thì thọ, tưởng, hành cũng vậy. (Chấp hiện tại và vị lai đều không tướng), thành ra tám món vô tướng. Hoặc chấp Niết bàn chỉ có cái tên suông, không có nhân quả, rốt ráo đoạn diệt.
Vì hành giả mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh tri kiến, khởi ra các lối tà chấp như vậy, nên đều đọa về ngoại đạo.
8. Chấp tám món cu phi.
Người tu thiền định, đối với ba ấm: sắc, thọ và tưởng, trước kia thấy có mà nay lại không. Còn đối với hành ấm thiên lưu hiện nay thì có mà về sau lại không. Vì chấp mỗi ấm đều có hai tướng: Chết rồi phi hữu và phi vô, cả bốn ấm thành ra tám tướng. Bởi hành giả mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh tri kiến nên đều đọa về ngoại đạo.
9. Chấp bảy món đoạn diệt.
Người tu thiền định, khởi ra các chấp: Cõi dục thì “sắc thân” diệt hết; cõi Sơ thiền các “dục” diệt hết; cõi Nhị thiền các “khổ” diệt hết; cõi Tam thiền các “vui” diệt hết; cõi Tứ thiền các “xả” diệt hết.
Như vậy xoay vần cùng tột cả năm nơi đều chấp hiện tiền tiêu diệt, diệt rồi không sanh trở lại. Vì hành giả mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh tri-kiến, sanh các lối tà chấp như vậy, nên đọa về ngoại đạo.
10. Chấp năm món Niết bàn hiện tại.
Người tu thiền định, khi thọ ấm hết, xét cùng cội gốc của sanh loại, khởi ra chấp năm chỗ Niết-bàn:
1. Chấp Dục giới là cảnh Niết bàn.
2. Chấp cõi Sơ thiền là Niết bàn.
3. Chấp Nhị thiền là Niết bàn.
4. Chấp Tam thiền là Niết bàn.
5. Chấp cõi Tứ thiền là Niết bàn.
Vì hành giả mê mờ tánh Bồ đề, chấp năm cảnh vui cõi trời hữu lậu mà cho là Vô vi Niết bàn, nên đọa về ngoại đạo.
TÓM LẠI
A-Nan, mười cảnh ma về hành ấm này, là do hành giả dụng tâm sai lầm nên mới sanh ra như vậy. Vì hành giả mê mờ không biết, tự cho là chứng Thánh, sanh đại vọng ngữ, nên đọa vào địa ngục vô gián. Vậy các ông nên đem các việc ma này, truyền dạy cho chúng sanh đời sau, chớ để cho người tu thiền bị tâm ma khởi lên làm hại đến thế. Các ông phải bảo hộ người tu hành đi thẳng đến đạo Bồ đề, chớ để cho họ gặp con đường chia tế.
10 MÓN MA VỀ THỨC ẤM
1. Chấp minh đế.
Người tu thiền định, khi hành ấm hết, chỉ còn thức ấm, các tướng sanh diệt đã hết, mà tâm thanh tịnh tịch diệt chưa hiển bày. Lúc bấy giờ nếu hành giả móng tâm chấp là chân thường, thì mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ đề, thành bè bạn với phái ngoại đạo Ta-tỳ-ca-la, chấp minh đế (sơ tướng A-lại-da) là cái chỗ trở về của vạn vật, trái với thành Niết bàn, đọa về ngoại đạo.
2. Chấp năng sanh.
Người tu thiền định, khi hành ấm hết, các tướng sanh diệt đã diệt, mà tâm thanh tịnh tịch diệt chưa hiện, khi đó thấy thức tâm mình châu biến, rồi khởi ra cái chấp: “Tất cả chúng sanh đều do ta sanh ra”. Vì sanh tâm chấp như thế, nên mất chánh kiến, mê lầm tánh Bồ đề, thành bà con của trời Ðại ngã mạn (Ma-hê thủ la thiên).
3. Chấp chân thường.
Người tu thiền định, khi hành ấm hết, thức ấm hiện ra, rồi sanh tâm nghi: Thân mình và mười phương hư không đều từ thức kia hiện ra, nên sanh tâm chấp cho “Thức là chân thường”, mất chánh kiến, mê tánh Bồ đề, thành bè bạn của trời Tự tại.
4. Chấp cây cỏ cũng đều có biết.
Người tu thiền định, khi hành ấm hết, tướng sanh diệt đã diệt, chân tâm tịch diệt chưa hiện bày, lúc bấy giờ thấy thức ấm biến khắp tất cả, rồi sanh tâm chấp: “Mười phương cây cỏ cũng đều là hữu tình, cùng với người không khác. Cỏ cây chết làm người, người chết trở lại làm cỏ cây”. Vì mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh kiến, nên sẽ làm bè bạn với hai chúng ngoại đạo Bà tra và Tán ni, chấp tất cả vạn vật đều có tri giác (biết).
5. Chấp tứ đại hóa sanh.
Người tu thiền định, khi hành ấm hết, chân tâm chưa hiện, lúc bấy giờ thấy lửa sáng, nước trong, gió động, đất cứng, do bốn món này sanh ra các vật, rồi chấp cho là thường còn, hết lòng cung kính phụng thờ. Như ông Ca diếp Ba và phái Bà la môn thờ lửa, thờ nước v.v… để cầu ra khỏi sanh tử, mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh kiến, đọa làm ngoại đạo.
6. Chấp hư vô.
Người tu thiền định, khi hành ấm hết, thấy thức ấm viên minh, rồi sanh ra chấp cái thức ấm hư vô, là chỗ nương của muôn vật, tất cả các vật đều về chỗ hư. Vì vậy mà mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ đề nên thành bè bạn với trời Vô tướng, Tứ không và thần Hư không.
7. Tham cầu sống lâu.
Người tu thiền định khởi tâm tham cầu thân này thường còn, cố làm cho thân này được sống hoài không chết, nên thành bè bạn của tiên A tư đà, cầu mạng sống lâu, mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh kiến, đọa về ngoại đạo.
8. Tham luyến cảnh dục.
Người tu thiền định, khi hành ấm hết, lúc bấy giờ thấy thân thể và thức tâm tiêu diệt, cho nên sanh tâm lưu luyến lại cảnh trần, tự biến hóa ra nhiều cảnh báu đẹp và nhiều mỹ nữ, rồi mặc tình vui thú. Vì mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ đề, nên thành bè bạn của Thiên ma ở cõi trời Tự tại (trên đỉnh cõi Dục).
9. Ðịnh tánh Thanh văn.
Người tu thiền định, khi hành ấm hết, các tướng sanh diệt đã diệt, mà chân tâm tịch diệt chưa viên, lúc bấy giờ khởi tâm tham luyến ở chỗ không tịch, chẳng muốn tăng tiến, vì mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ đề, đọa về hàng Ðịnh tánh Thanh văn, như ông Vô văn Tỳ kheo, sanh tâm tăng thượng mạn.
10. Ðịnh tánh Duyên giác.
Người tu thiền định, khi hành ấm hết, chỉ thấy một màu thanh tịnh sáng suốt, lúc bấy giờ sanh tâm chấp cho đó là Niết bàn; rồi tham\ trước ở cảnh này, không cầu tăng tiến, mê mờ tánh Bồ đề, mất chánh kiến, nên đọa về hàng Ðịnh tánh Duyên giác.
TÓM LẠI
A-Nan, mười món ma này, do người tu thiền, khi dụng tâm phá trừ thức ấm, nên nó biến hiện ra các cảnh như vậy. Vì mất chánh tri kiến, mê lầm tánh Bồ đề, khởi tâm chấp trước, cho mình đặng thiền, đặng đạo, thành Phật, thành Thánh v.v… có người sanh ra điên cuồng, nên đều đọa về ngoại đạo cả.
Vậy các ông phải gìn giữ nơi lòng, vâng lời Ta dạy: Sau khi Ta diệt độ rồi, các ông phải đem lời Ta dạy đây mà truyền dạy cho chúng sanh đời sau, bảo hộ người tu hành, chớ để cho chúng ma làm hại. Trên đường tu hành, họ được thẳng vào chỗ tri kiến của Phật, chẳng gặp các đường tế.
Này A-Nan, người trong khi tu thiền, gặp ma nó biến hiện ra nhiều cảnh rất là vi tế, nếu các ông hiểu biết, rửa sạch tâm cấu nhiễm, chẳng khởi tà kiến, thì cảnh ma kia lần lần tiêu diệt, các ông sẽ đến đạo Bồ đề.
Còn như đời sau, có chúng sanh nào chẳng biết tu thiền, sợ bị các ma nhiễu hại, thì ông nên khuyên họ nhất tâm trì chú Lăng nghiêm này, để các ma chướng kia chẳng thể hại được, rồi cũng thẳng đến được đạo Bồ-đề.
Khi Phật nói kinh này rồi, toàn cả hội chúng, nào là: Tăng, Ni, thiện nam, tín nữ, Trời, Người, thần A tu la, Thánh, Tiên, Quỉ thần, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, tất cả đều hoan hỷ lễ Phật rồi trở lui.
LƯU Ý
Quí Phật tử đọc hết đoạn ngũ ấm ma này rồi, từ đây về sau, trên đường tu hành cần phải thận trọng, chớ nên gặp chi tin nấy, mà nguy hiểm cho mình về hiện tại cũng như tương-lai.
Chúng tôi thấy trong giới Phật tử, phần đồng là hàng phụ nữ (xin lỗi quí bà) lòng tin tưởng dồi dào lắm! Mỗi khi thấy một việc gì lạ thường, có tính cách thần kỳ huyễn hoặc, không chịu bình tâm suy xét chân hay ngụy; cứ cho đó là Phật thị hiện hay Bồ tát giáng thế v.v… rồi rủ nhau tin tưởng theo càn, say mê như người nghiện thuốc, rủ nhau theo rất đông cho đến thành cả phong trào. Như việc trước mắt mà quí vị đã thấy vừa qua… kết cuộc rồi thế nào quí vị đã biết rõ… Thật nguy hại vô cùng! Nếu lỡ một phen bước vào đường tà rồi, thì trăm kiếp ngàn đời khó trở lại.
Tôi xin dẫn một vài bằng chứng trong kinh, để quí vị xem qua, đặng cẩn thận những điều nguy hiểm trong lúc tu hành.
Thuở xưa, Tổ Ưu bà- quật Tôn giả đang nhập định, bị Thiên ma Ba tuần khuấy nhiễu. Ðến khi xuất định, Ngài dùng thần thông hàng phục được Thiên ma. Sau khi chúng đã hối ngộ quy y Tam bảo rồi, vì cảm hồng ân tế độ của Tổ sư, nên đến xin cúng dường Ngài một bữa cơm để tỏ lòng tri ân.
Tổ sư dạy:
- Ta vì chuyên lo tu hành, không giờ rảnh để thụ trai. Ta chỉ muốn xem một việc, nếu ngươi bằng lòng, thế là đền ơn cho ta rồi.
Thiên ma nói:
- Dạ, đệ tử xin vâng.
Tổ sư dạy:
- Khi Phật ra đời đã có ngươi; vậy trong lúc đó Phật cùng các vị Thánh chúng như thế nào? Hôm nay ngươi hóa hiện lại cho ta xem thử.
Thiên ma thưa:
- Con xin vâng lời Tổ sư dạy. Nhưng khi con hóa hiện ra Phật, xin Tổ sư nhớ đừng lạy, vì sợ tổn phước con nhiều.
Tổ sư hứa lời.
Thiên ma Ba tuần liền biến mất, trong giây phút hóa hiện ra đức Phật, thân vàng rực rỡ, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, hào quang sáng chiếu khắp một góc trời, trong rừng từ từ đi ra. Nào là ngài Xá lợi phất, Mục kiền liên, A nan, Ca diếp đứng hầu hai bên oai nghi tề chỉnh, đủ cả 1250 vị đệ tử, rầm rộ đi theo sau…
Tổ Ưu bà quật Tôn giả, thấy Phật đi đến phóng hào quang rực rỡ, các vị Thánh chúng theo hầu, oai nghi tề chỉnh v.v… nên hết sức vui mừng, liền đứng dậy đảnh lễ, mà quên hẳn lời hứa trước kia. Lúc bấy giờ Thiên ma Ba tuần biến mất.
Phật tử chúng ta xem qua đoạn này, nên xét nghĩ: Như Tổ Ưu-bà-quật Tôn giả đã biết trước là ma sắp hiện và có hứa hẹn trước “không lạy”, mà đến khi ma hiện ra còn quên, không phân biệt là ma hay Phật. Nếu chúng ta tình cờ gặp cảnh ngộ như thế, thử nghĩ trong tâm chúng ta thế nào?
Bởi thế nên trên đường tu hành, lúc nào chúng ta cũng phải cẩn thận cho lắm, chớ nên thấy cái gì lạ, không chịu suy xét kỹ, cứ nhắm mắt theo càn, ùa nhau tin tưởng cho là Thần, Thánh thật. Lỡ một phen sa vào đường tà rồi, thì trăm kiếp ngàn đời khó trở lại. Chúng ta nên nhớ rằng: Cái gì thiệt thì nó vẫn thiệt, dù mình tin hay không tin nó cũng không mất. Còn cái giả thì chỉ ồ ạt trong một thời gian mà thôi, nếu người không tin thì nó sẽ mau tiêu diệt.
Phật dạy các đệ tử: “Không nên thấy Phật cứ theo, nghe lời Phật nói cứ tin; mà phải luôn luôn suy nghĩ, nếu đúng chân lý sẽ tin theo”. Phật dạy như thế, để cho các Phật tử khỏi bị tà ma ngoại đạo dối gạt.
Trong kinh Kim Cang Phật dạy:
"Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà-đạo
Bất năng kiến Như-Lai."
Ðại ý đoạn này Phật dạy: Nếu người nào cho rằng thấy sắc thân của Phật có 32 tướng tốt, là thấy được Phật, thì ông Chuyển Luân Thánh Vương cũng có đủ 32 tướng tốt, hoặc ma nó hóa hiện ra sắc thân Phật có đủ tướng tốt, vậy cũng là Phật hay sao? - Hay nghe tiếng nói pháp thanh tao của Phật mà cho là nghe được tiếng Phật, thì tiếng chim Ca-lăng-tần-già, kêu rất thanh tao lảnh lót, vậy cũng là tiếng nói của Phật hay sao? Những người tin tưởng như vậy, là theo tà đạo, không bao giờ thấy được Phật.
Phật thường nhắc nhở dặn dò các đệ tử: Phải dùng giáo lý chân chánh dạy người. Khi người hiểu được chân lý rồi tin theo, thì lòng tin đó mới được chân chánh. Phật cấm các đệ tử không cho dùng thần thông hay phép lạ để cảm hóa người. Chỉ trừ một vài trường hợp: hàng phục ngoại đạo hoặc quỉ thần; vì sợ sau này Thiên ma, ngoại đạo dùng thần thông hay phép lạ làm mê hoặc người.
Vì thế nên Phật không từ trên hư không rớt xuống, hay tự nhiên xuất hiện; mà Ngài lại thị hiện cũng như người, lớn lên có vợ con, rồi đi tu và thành đạo v.v… để cho chúng sanh sau này, đừng có tin tưởng vào những điều huyễn hoặc thần kỳ.
Khi Phật còn trụ thế, có người đàn việt đem dâng cái bình bát cho chư tăng, lại để trên đầu một cây cột phướn cao, và thưa rằng: “Nếu vị nào lấy được, tôi sẽ cúng cho”.
Khi đó ông Tần-Ðầu-Lô Phã-La-Ðọa-Xà Tôn giả, dùng thần thông lấy cái bình bát ấy, ông bị Phật quở trách rất nghiêm khắc, và phạt ông phải ở lại thế gian ứng cúng, làm phước điền cho chúng sanh, không được nhập diệt. Và Phật còn chế ra giới luật cấm các đệ tử không được dùng thần thông hay phép lạ trước người phàm phu.
Trong Kinh cũng có chỗ nói, các Đức Phật và Bồ tát thỉnh thoảng thị hiện ra đời để hóa độ chúng sanh, như Đức Di Lặc hay ngài Quán Thế Âm v.v… Nhưng khi các Ngài hiện ra không ai biết được, chỉ trừ đến khi tịch diệt, các Ngài mới để lại một vài di tích. Chừng đó người đời mới biết Phật hay Bồ tát thị hiện; khi biết thì không còn thấy các Ngài nữa.
Như Đức Di Lặc Bồ tát hiện thân làm vị Bố Đại Hòa Thượng. Ngài thường xách cái bị lớn bằng vải, đi khắp đó đây để hóa độ chúng sanh, mà người đời không ai biết, chỉ gọi Ngài là vị Bố Đại Hòa Thượng (1). Ðến khi Ngài thị tịch, nói một bài kệ, lúc bấy giờ người ta mới biết là Đức Di Lặc Bồ tát hiện thân.
Bài kệ:
"Di Lặc chân Di Lặc
Hóa thân Thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân giai bất thức."
Nghĩa là: Di Lặc thật là Di Lặc, biến hóa trăm ngàn muôn ức thân hình; thường thường thị hiện độ người, mà người đời chẳng ai biết.
Sự Khác Biệt Giữa Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, A La Hán
Trong Kinh Đại Thừa thì có nói về Tứ Thánh là:
1) Phật
2) Bồ Tát
3) Duyên Giác
4) A La Hán
Các bậc Bồ Tát trong Thập Địa, Duyên Giác, A La Hán đã có Trí Huệ Thần Thông nhưng mà không có bằng Đức Phật. Thần Thông Trí Huệ của các Bồ Tát, Duyên Giác, A La Hán thì còn có hạn lượng còn Thần Thông Trí Huệ của Đức Phật thì không có hạn lượng.
Trong một thời trong một thế giới thì chỉ có một Đức Phật ra đời khi nào mà Chánh Pháp của Đức Phật đó diệt hết thì mới có một Đức Phật khác ra đời.
Nhưng trong một thời trong một thế giới thì có thể có nhiều Bồ Tát, Duyên Giác, A La Hán cùng ra đời.
Thí dụ như Đức Phật Thích Ca hiện ra ở cõi Ta Bà này thì khi nào mà Giáo Pháp của Đức Phật Thích Ca đã diệt hết thì lúc đó Đức Phật Di Lặc mới hiện ra đời.
Các vị Duyên Giác chỉ hiện ở đời khi mà không có Phật Pháp ở tại thế gian. Các vị Duyên Giác Không có thuyết Pháp độ sanh như Đức Phật.
Trong thời của Đức Phật thì có rất nhiều vị chứng quả Bồ Tát, A La Hán.
Phật
Là bậc giải thoát viên mãn khỏi hai thứ chướng ngại đó là Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng (còn gọi là Nhất Thiết Trí Chướng nói gọn là Trí Chướng).
Phiền Não Chướng: Là Tham, Sân, Si, Vô Minh Thô còn gọi là Nhất Niệm Vô Minh.
Sở Tri Chướng: Là sự chướng ngại chứng đắc Nhất Thiết Trí, sự chướng ngại này là Vô Minh Vi Tế còn gọi là Căn Bản Vô Minh hay là Vô Thủy Vô Minh.
Nhất Thiết Trí: Là Trí biết tất cả các Pháp Thế Gian và Pháp Xuất Thế Gian cùng tột quá khứ, hiện tại, vị lai không có ngăn ngại.
Phật thì có đủ các đức tính sau đây:
1) Ba Minh
2) Sáu Thông
3) Mười Trí Lực
4) Bốn Vô Sự Không Sợ
5) Mười Tám Pháp Chẳng Chung với Bồ Tát, Duyên Giác, A La Hán
Ba Minh:
1) Thiên Nhãn Minh
2) Túc Mạng Minh
3) Lậu Tận Minh
Sáu Thông:
1) Thiên Nhãn Thông
2) Túc Mạng Thông
3) Tha Tâm Thông
4) Thần Túc Thông
5) Thiên Nhĩ Thông
6) Lậu Tận Thông
Bốn Vô Sự Không Sợ:
Bốn điều này Phật đối giữa loại chúng các hàng Thiên Ma, Phạm Thiên, Sa Môn, Bà La Môn, nói một cách tự tại không sợ ai, không ai nói được nên gọi là "Không Sợ".
1) Phật nói là hiểu biết tất cả pháp thế gian và xuất thế gian
2) Phật nói là hoặc nghiệp sanh tử đều biết hết và tự mình đã dứt sạch hết
3) Phật nói là các pháp ma ngoại là chướng thánh đạo
4) Phật nói những pháp có thể diệt hết các khổ.
Mười Tám Pháp Chẳng Chung với Bồ Tát, Duyên Giác, A La Hán
Mười Tám Pháp Chẳng Chung này chỉ có Phật chứng được mà chẳng chung đồng với hàng Bồ Tát, Duyên Giác, A La hán.
1) Thân không lỗi.
2) Miệng không lỗi.
3) Niệm không lỗi.
4) Không có tâm tưởng khác.
5) Không có tâm bất định.
6) Không có tâm không biết.
7) Sự muốn không giảm.
8) Tinh tấn không giảm.
9) Niệm không giảm.
10) Huệ không giảm.
11) Giải thoát không giảm.
12) Giải thoát tri kiến không giảm.
13) Tất cả thân nghiệp theo trí tuệ mà hành động.
14) Tất cả khẩu nghiệp theo trí tuệ mà hành động.
15) Tất cả ý nghiệp theo trí tuệ mà hành động.
16) Trí tuệ biết đời vị lai không ngại,
17) Trí tuệ biết đời quá khứ không ngại.
18) Trí tuệ biết đời hiện tại không ngại.
Bồ Tát là các bậc phát Bồ Đề Tâm tu tập 10 Ba La Mật hồi hướng Phật Quả nguyện làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Tất cả chúng sanh nếu muốn tu hành thành Phật thì đều phải trải qua các bậc Bồ Tát là: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Vị, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác (Phật)
Đây là các bậc Bồ Tát từ thấp đến cao:
Thập Tín Bồ Tát
1-Tín Tâm Trụ
2-Niệm Tâm Trụ
3-Tinh Tấn Tâm
4-Huệ Tâm Trụ
5-Định Tâm Trụ
6-Bất Thối Tâm
7-Hộ Pháp Tâm
8-Hồi Hướng Tâm
9-Giới Tâm Trụ
10-Nguyện Tâm Trụ
Thập Trụ Bồ Tát
1-Phát Tâm Trụ
2-Trị Địa Trụ
3-Tu Hành Trụ
4-Sanh Quý Trụ
5-Phương Tiện Cụ Túc Trụ
6-Chánh Tâm Trụ
7-Bất Thối Trụ
8-Đồng Chân Trụ
9-Pháp Vương Tử Trụ
10-Quán Đảnh Trụ
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn thì bậc Bồ Tát Quán Đảnh Trụ mới chứng nhập chút ít phần về Phật Tánh.
Thập Hạnh Bồ tát
1-Hoan Hỉ Hạnh
2-Nhiêu Ích Hạnh
3-Vô Sân Hận Hạnh
4-Vô Tận Hạnh
5-Ly Si Loạn Hạnh
6-Thiện Hiện Hạnh
7-Vô Trước Hạnh
8-Tôn Trọng Hạnh
9-Thiện Pháp Hạnh
10-Chân Thật Hạnh
Thập Hồi Hướng Bồ Tát
1-Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sanh, Ly Chúng Sanh Tướng Hồi Hướng
2-Bất Hoại Hồi Hướng
3-Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng
4-Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng
5-Vô Tận Công Đức Tạng Hồi Hướng
6-Nhập Nhất Thiết Bình Đẳng Thiện Căn Hồi Hướng
7-Đẳng Tùy Thuận Nhất Thiết Chúng Sanh Hồi Hướng
8-Chân Như Tướng Hồi Hướng
9- Vô Trước Vô Phược Giải Thoát Hồi Hướng
10-Nhập Pháp Giới Vô Lượng Hồi Hướng
Tứ Gia Hạnh Vị Bồ Tát
1-Noãn Địa
2-Đảnh Địa
3-Nhẫn Địa
4-Thế đệ Nhất Địa
Thập Địa Bồ Tát
1-Hoan Hỷ Địa - viên mãn Bố Thí Ba La Mật
2-Ly Cấu Địa - viên mãn Trì Giới Ba La Mật
3-Phát Quang Địa - viên mãn Tinh Tấn Ba La Mật
4-Diệm Huệ Địa - viên mãn Nhẫn Nhục Ba La Mật
5-Nan Thắng Địa - viên mãn Thiền Định Ba La Mật
6-Hiện Tiền Địa - viên mãn Bát Nhã Ba La Mật
7-Viễn Hành Địa - viên mãn Phương Tiện Ba La Mật
8-Bất Động Địa - viên mãn Nguyện Ba La Mật
9-Thiện Huệ Địa - viên mãn Lực Ba La Mật
10-Pháp Vân Địa - viên mãn Trí Ba La Mật
11-Đẳng Giác Địa (tức là Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát)
(còn gọi là Phổ Hiền Quang Minh Địa)
12-Diệu Giác Địa (tức là Phật)
(còn gọi là Tỳ Lô Giá Na Phổ Quang Minh Địa)
Bồ Tát từ bậc Hoan Hỷ Địa lên đến bậc Nan Thắng Địa về Phước Báo và Hạnh Nguyện độ sanh thì hơn bậc Duyên Giác và A La Hán nhưng về Trí Huệ thì chưa bằng.
Bậc Bồ Tát Hiện Tiền Địa đã hết Phiền Não Chướng và Trí Huệ thì đồng với bậc Duyên Giác và A La Hán nhưng Phước Báo và Hạnh Nguyện độ sanh thì hơn bậc Duyên Giác và A La Hán.
Bậc Bồ Tát từ Viễn Hành Địa trở lên thì đã hết Phiền Não Chướng mà chỉ còn Sở Tri Chướng. Bậc Bồ Tát từ Viễn Hành Địa trở lên về Phước Báo và Trí Huệ đều hơn bậc Duyên Giác và A La Hán.
Các bậc Bồ Tát trong Thập Địa thì đều dùng trí huệ phá từng phần của Sở Tri Chướng.
Duyên Giác
Có hai bậc Duyên Giác
1-Độc Giác
Là các vị trong kiếp có Đức Phật ra đời do nghe Đức Phật nói Pháp tu hành mà chứng được quả Tu đà Hoàn và còn có 7 lần sanh tử. Trong 7 lần sanh tử đó có khi sanh lên cõi trời mà cõi trời thì sống rất là lâu vì vậy nếu kiếp sau cùng khi sanh trở lại cõi người mà Phật Pháp đã bị diệt mất thì khi vị này chứng quả A La Hán thì không gọi là A La Hán mà gọi là Độc Giác. Độc Giác có nghĩa là tự chứng không có thầy, đây là nói lúc chứng đạo nhưng truy nguyên thì đã ngộ đạo từ nơi Đức Phật.
Bậc Độc Giác chỉ giải thoát khỏi Phiền Não Chướng chưa giải thoát khỏi Sở Tri Chướng.
2-Duyên Giác
Là các vị sanh trong kiếp không có Đức Phật ra đời mà tự mình quán lý 12 Nhân Duyên mà thành đạo.
Bậc Duyên Giác chỉ giải thoát khỏi Phiền Não Chướng chưa giải thoát khỏi Sở Tri Chướng
Trong Kinh A Hàm, cũng như kinh Đại Thừa thì các vị Duyên Giác có Phước Báo nhiều hơn và Trí Huệ sâu hơn là các vị A La Hán bởi vì các vị Duyên Giác phải tu hành thì từ 40 đến 100 kiếp tích tập phước báo rồi mới thành đạo.
A La Hán
Là các vị sanh ra trong kiếp có Đức Phật ra được nghe Phật Pháp tu hành đắc quả.
Bậc A La Hán chỉ giải thoát khỏi Phiền Não Chướng chưa giải thoát khỏi Sở Tri Chướng.
Tứ Sanh
Đạo Phật nói có 4 hình thức sanh khởi các loài hữu tình:
1. Loài từ trứng sanh ra (noãn sanh) như chim, bò sát, v. v...
2. Loài từ bào thai sanh ra (thai sanh) như người, thú, v. v...
3. Loài từ ẩm ướt sanh ra (thấp sanh) như trùng, đom đóm v. v...
4. Loài từ biến hóa sanh ra (hóa sanh) như trời, Địa ngục v. v...
TỨ SINH
Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật : Thế nào là tứ sinh? Tạo những nghiệp chi mà bẩm thọ thân mạng mỗi loại không giống nhau?
Thế Tôn nói : Hết thảy chúng sinh từ vô thỉ đến nay gây tạo nhiều việc điên đảo, niệm niệm không lành, vùi lấp chân tánh, tham luyến trần duyên mãi mãi bởi tham sân si tạo các tội lỗi không lường không ngăn như là sát sanh, trộm cướp tà dâm v v…đến khi luân hồi bẩm thụ thân hình đều khác. Nay nói sơ qua nghiệp chướng của bốn loại:
1) Noãn sanh: là người đời trước vì kế sinh nhai, tâm hay sắp đặt mưu mô xảo trá lừa gạt người nên đọa làm noãn sanh như các loài chim, cá v v… Người kế cao thì làm chim, thấy người thì bay cao. Người mưu sâu thì làm cá, gặp người thì lặn xuống.
2) Thai sanh: Người này đời trước tham đắm dâm dục nên đọa thai sanh, người, dê, heo, có…cùng thú có vú đẻ con như trâu, bò, ngựa, mèo. Tội tham dâm, như sanh làm người thì đặng đứng thẳng, Nếu lòng ngang ngược, tham dục không có tiết độ thì sanh làm thú đi ngang bốn chân.
3) Thấp sanh: Người này đời trước tham ăn uống rượu thịt cho là việc vui chơi, hay đánh lộn giữa chợ, loạn tâm điên đảo nên đọa làm thấp sanh là loài cua, tôm, rùa, trạch v v…
4) Hóa sanh: Người này đời trước tâm hay dời đổi, ý niệm khác thường, trước mặt nói phải, sau lưng nói quấy. Làm nhiều tội ác nên đọa làm hóa sanh như loài ve, bướm, muỗi, ruồi v v…
Phật nói cùng ông Văn Thù Sư Lợi: Trong lục đạo tứ sanh, thì con người là quí trọng, vì loài người có tánh linh, Phật cũng từ loài người mà tu hành, nghiệp cũng do loài người tạo ra. Người tu phước thì được về cõi Trời, người làm ác thì đọa vào địa ngục. Người có đức làm Thần, người có đạo làm Thánh. Phước và Tội đều có liên quan nhiều đời, không thể đem hiện tại mà nhận định, đến khi mạng chung theo nghiệp trả quả. Trong sáu đường, đường Người là rất quí, năm đường kia không sánh kịp, nên một khi mất thân người muôn kiếp không thể phục hồi lại được.
Vô Sanh Nhẫn
Vô Sanh Nhẫn còn gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn
Tâm đã an trụ nơi lý Vô sanh vô diệt, tâm an tịnh không dao động trước mọi nghịch cảnh, các vị từ Sơ địa Bồ tát cho đến Phật, đều không còn sanh ác tâm nhưng Sơ địa mới chứng cái danh Vô Sanh Nhẫn, Bát địa chứng ngộ thể Vô Sanh Nhẫn.
Tỏ được cái Chân Như Thật Tướng, gọi là đắc pháp Vô Sanh. Tỏ được cái chân trí vô lậu, gọi là Nhẫn, vì khi đã đắc được cái trí ấy, Tâm mới có thể nhẫn được tất cả hoàn cảnh mà được tự tại vô ngại, nên gọi là Vô Sanh Nhẫn.
Vô Sanh tức là không sanh không diệt. Nhẫn có nghĩa là tin nhận giữ gìn; là nói dùng trí vô lậu an trú trong thể chân lý bất sanh bất diệt, tâm không lay động. Trong “Ðại Trí Ðộ luận”, quyển 50 nói: “Ðối thật tướng vô sanh diệt của các pháp, tin nhận thông suốt, không ngăn ngại, không thoái lui, gọi là Vô Sanh Nhẫn”.