Nghi Quỹ Đàn Thành
Hỏi: Hành giả Chân Phật sau khi quy y quán đảnh, có cần kiến lập đàn thành (mạn đà la) hay ban thờ không?
Đáp: Cần chứ.
“Đàn thành” nói một cách đơn giản, chính là “đạo tràng tu tập”. Ý nghĩa chính của nó là hàng ngày bản thân bạn có thể lặng lẽ ngồi thiền tu tập trong tịnh thất này, không bị sự quấy nhiễu của người khác. Tông phái quy định, mỗi ngày tối thiểu phải tu 1 thời. “Đàn thành” này chính là nơi tu pháp, cũng chính là nơi để thờ phượng Chư Phật - Bồ Tát - Chư Tôn.
“Đàn thành” tại sao lại cần thiết?
Vì những người mới tu, lặng yên ngồi tu pháp, sự “an tịnh” là điều quan trọng. Hơn nữa, hành giả thấy sự thắng diệu trang nghiêm của các vị Chư Tôn, cũng sẽ khởi tâm hoan hỉ, vui vẻ ngồi lâu trước đàn thành. Kiến lập “đàn thành”, càng lợi lạc cho việc tu pháp “quán tưởng”. Có “đàn thành” chẳng khác gì có một “hướng đi.”
Ý nghĩa của đàn thành như sau:
1. An tịnh.
2. Trang nghiêm.
3. Hướng đi.
4. Tu pháp.
5. Linh thánh (thiêng liêng).
Hỏi: Bản thân hành giả Chân Phật nghèo túng, vì lý do hoàn cảnh, không thể bố trí đàn thành, có được không?
Đáp: Liên Sinh Thánh Tôn cho rằng, tốt nhất là trong khả năng của mình, cố gắng bố trí đàn thành. Nếu thực sự không có khả năng, hoặc người nhà phản đối, không thể kiến lập “đàn thành”, thì cũng đừng miễn cưỡng.
Hành giả Chân Phật như vậy, có thể nhân lúc nào rảnh, tìm nơi yên tĩnh một chút, dùng “phương tiện quán tưởng”, quán “đàn thành” trên hư không. Quán tưởng rõ ràng rồi, vẫn có thể tu pháp được.
Bổn phái khá xem trọng “đàn thành”. Vì Chân Phật Mật Pháp, có ý nghĩa bí mật, vì thế xem trọng cách bố trí đàn thành.
Tu Thiền tông, thì chưa chắc xem trọng “đàn thành”. Hành giả Thiền tông, “đi, đứng, nằm, ngồi” đều có thể tu thiền. Trong rừng núi, đồng bằng hay bên bờ hồ đều có thể ngồi thiền.
Chân Phật Mật Pháp do xem trọng “quán tưởng”, nên việc “kiến lập đàn thành” hoặc “quán tưởng đàn thành” là điều vô cùng quan trọng.
Những hành giả có khả năng kinh tế, cần “kiến lập đàn thành”.
Những hành giả không có khả năng kinh tế, cần “quán tưởng đàn thành.”
Hỏi: Đàn thành có thể chia làm mấy loại?
Đáp: Đàn thành trong Phạn ngữ là mandala (mạn đà la).
Mandala đại khái có thể chia làm 4 loại:
1. Đại mandala: Là đàn thành tập trung tất cả Chư Tôn. Nơi đây có hình tướng và tranh ảnh của Chư Tôn, nơi đầy đủ toàn thể Chư Tôn – tất cả Chư Tôn từng vị một. Đây là nơi quy tụ tất cả Thánh Hiền, và tất cả đức hạnh trở về. Vì rộng lớn, nên được gọi là Đại Mandala.
2. Tam Muội Da mandala (Samaya mandala): Đàn thành thờ các ấn khế và pháp khí cầm tay của Chư Tôn trong tranh. Samaya là ý nghĩa của lời bổn thệ, thệ nguyện. Mandala thờ cúng biểu tượng của bổn thệ chính là Samaya mandala.
3. Pháp mandala (Dharma mandala): Đàn thành thờ cúng chủng tử tự và chân ngôn của Chư Tôn, thờ các văn tự và Kinh điển v.v... chính là Pháp mandala.
4. Kiết ma mandala (Karma mandala): Đàn thành thờ cúng hình ảnh của Chư Tôn, có ý nghĩa làm pháp, chính là Kiết ma mandala.
Bốn loại mandala này, đều có biểu trưng riêng:
*Đại mandala: Thập Pháp Giới.
*Tam Muội Da mandala: Bình đẳng.
*Pháp mandala: Lục trần tri giác.
*Kiết ma mandala: Động thái tác pháp, làm pháp.
Hỏi: Thế nào là mạn đà la Kim Cang Giới và mạn đà la Thai Tạng Giới?
Đáp: Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới gọi chung là “Lưỡng bộ mạn đà la”, cũng chính là “Kim Thai Lưỡng Bộ” của Mật giáo. Hai bộ này đều là pháp môn Thành tựu Phật tất địa (Phật siddhi.)
Mạn đà la Kim Cang Giới chính là pháp môn để tất cả chư Phật thành tựu quả vị, và nó cũng là quả vị của trí tuệ.
Mạn đà la Thai Tạng Giới chính là pháp môn Chúng Sinh Bổn Cự Lý Tín, là nhân, là “pháp môn để tất cả chúng sinh có lý trí, và là nguyên nhân của lý trí".
Hỏi: Mandala còn có những loại nào?
Đáp: Mandala thực ra còn có rất nhiều loại, đây chính là “Chi Sinh Mạn Đà La” tức là “Mandala rễ và nhánh”. Thông thường chúng ta thấy hình ảnh Tây Phương Tam Thánh, cộng thêm 16 linh ảnh của Tây Phương, chính là “mạn đà la Tịnh Thổ.”
Bức tranh Thích Ca Mâu Ni Phật tại Linh Sơn Hội mà chúng ta thường thấy, có thể gọi là “mạn đà la Pháp Hoa.”
Tôi cũng từng thấy 1 bức tranh, phía trên có Thất Diệu Tinh (7 hành tinh) gồm: Mặt Trời, Mặt Trăng, sao Thủy, sao Hỏa, sao Mộc, sao Kim, sao Thổ, cộng thêm La Hầu, Kế Đô, thành 9 hành tinh, là mạn đà la Cửu Diệu.
Hiện nay có rất nhiều loại mạn đà la: Phật bộ, Liên Hoa bộ, Kim Cang bộ, Bảo bộ, Yết ma bộ.
Điều quan trọng nhất của mạn đà la là: Tam Mật cụ túc - Ba bí mật hoàn hảo.
Mạn đà la chính là chữ “Thể” trong “Thể - Tướng - Dụng”
Note:
Pháp: Trong Phật học, là chỉ tất cả vạn sự vạn vật, thường có thể phân tích từ 3 góc độ “Thể” - “Tướng” - “Dụng”. Sở dĩ gọi là “Thể” là chỉ bản thể, “Tướng” là chỉ hiện tượng, “Dụng” là chỉ “tác dụng”.
Ví dụ: Dùng vàng để làm dụng cụ chứa đồ vật. Vàng là bản thể, dụng cụ là hiện tượng của bản thể, khả năng dung chứa đồ vật là tác dụng của bản thể. Người thường đa số chỉ nhìn thấy “tướng“ của Pháp, nhưng lại không hiểu “thể” của pháp, càng không hiểu “dụng” của pháp.
Hỏi: Đàn thành nên bố trí “hoành tráng” hay “đơn giản”?
Đáp: Người nào có kinh tế nên “hoành tráng”
Người nào không có kinh tế có thể “đơn giản” hơn.
Tất cả đều tốt như nhau. Nhưng, quan trọng là cần phải bố trí sao cho trang nghiêm. Quan trọng pháp khí cần thiết phải có đủ. Nếu thiếu pháp khí thì bất như pháp. Pháp khí quan trọng gồm 3 thứ: Kim cang chuông, kim cang chày, tràng hạt niệm Phật.
Hỏi: Việc lựa chọn đàn thành tịnh thất có quan trọng không?
Đáp: Liên Sinh Thánh Tôn cho rằng, rất quan trọng.
Một số Pháp sư cho rằng không quan trọng, trong tâm kiền kính (kính cẩn) là được. Thực ra đây là do Pháp sư thông thường không hiểu về “nguyên lý phong thủy.”
Nếu như, tùy tiện bố trí Mật đàn dưới cây cột lớn, hoặc tựa lưng vào cửa sổ lớn, hoặc lối ra vào, hoặc đối diện toilet. Đừng nói đến phong thủy như thế nào thì thực chất tâm lý của mình từ lâu đã bị ảnh hưởng bởi những nhân tố này rồi.
“Môn học phong thủy” chính là môn học về môi trường vô hình, thế nên biến tịnh thất thành Mật đàn. Mật đàn vừa là nơi “Thần Thánh cùng nhau trở về”, việc lựa chọn tịnh thất vô cùng quan trọng, không được sơ suất.
Liên Sinh Thánh Tôn cho rằng, biến tịnh thất thành Mật đàn có những điều quan trọng như sau cần lưu ý:
- Thanh tịnh và yên tĩnh.
- Tàng phong tụ khí.
- Hướng Mật đàn hợp với hướng từ tính của hành giả.
- Hướng Mật đàn ngược với hướng chảy của dòng nước.
- Bức tường đặt Mật đàn, trên - dưới - trái - phải đều không được rỗng, nên là bức tường vững chắc.
- Ánh sáng vừa phải.
Những điều quan trọng này nếu có sẵn là tốt nhất, nếu không thể có sẵn hết, thì cần mời phong thủy sư tới nhà chỉ dẫn để sửa lại cho đúng.
“Phong thủy Mật đàn” cũng là một môn học rất hay! Mật đàn cần “Thánh Diệu trang nghiêm”, Mật thất “thanh tịnh nhẹ nhàng”. Trong lúc tu pháp “Trên cúng Tam bảo, dưới cúng Tứ sinh”, vô tình phước huệ tăng trưởng, hành giả Chân Phật được đại thành tựu.
Đây là hợp nhất “Phật” - “Đàn” - “Nhân” 3 trong 1. Tức là hợp nhất “Thiên” - "Địa” - "Nhân.”
Hỏi: Liên Sinh Thánh Tôn đã nói rất rõ ràng và dễ hiểu về phong thủy tịnh thất của đàn thành rồi, những chúng sinh chậm hiểu vẫn không hiểu, thì phải làm sao?
Đáp: Như vậy nhé! Có thể không cần để ý đến “hướng ngược dòng nước”, hợp hay không hợp với “hướng từ tính của hành giả”. Chỉ cần căn phòng thanh tịnh yên tĩnh, bức tường đặt đàn thành phải vững chắc.
Nếu vẫn còn chưa hiểu
Thì nên mời thầy phong thủy tới khảo sát. Vì việc bố trí Mật đàn là chuyện cả đời, không phải chỉ 1 - 2 năm. Vẫn cần phải mời thầy am hiểu phong thủy địa lý về xem qua đó.
Trong tương lai, lúc Liên Sinh Hoạt Phật du hành khắp thế giới, nếu đến nơi các bạn ở, Ngài có thể đi khảo sát Mật đàn của mọi người, như vậy sẽ không bị sai sót, đây là bảo hiểm hạng nhất.
Hỏi: Mật đàn bố trí như thế nào?
Đáp: Theo 4 loại mandala, thực là có sự khác biệt nhẹ.
Tôi xin trích dẫn bố cục của “Chân Phật Mật Uyển”, như sau:
Phía trên chính giữa bức tường là mạn đà la của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Phía trên bên phải bức tường là mạn đà la của Di Lặc Bồ Tát.
Phía trên bên trái bức tường là mạn đà la của Thiên Thủ Quan Âm.
Những bức tượng Kim thân gồm có:
Chính giữa là A Di Đà Phật (bằng sứ)
Bên phải là Diêu Trì Kim Mẫu (điêu khắc bằng gỗ)
Bên trái là Quan Âm Bồ Tát (điêu khắc bằng gỗ)
Trong khi những bức tượng Kim thân khác như: Liên Hoa Sanh Đại Sĩ, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Bất Động Minh Vương, Quan Âm Tứ Thủ, Chuẩn Đề Phật Mẫu... nằm dưới tòa A Di Đà Phật. Sắp xếp trật tự, rải rác mà gọn gàng.
Bên phải bố trí một tháp xá lợi (bên trong có 2 viên kim cang xá lợi, xá lợi còn lại 4 viên), bên trái bố trí một mạn đà la cao 1 mét và Kinh sách nữa.
Phía trước Phật Bồ Tát, bày vật phẩm cúng dường, thường là 5 cúng dường hoặc 8 cúng dường, cũng có thể lên đến 37 cúng dường.
5 cúng dường là: Hoa, nhang, đèn, trà, trái cây. Có thể thay đèn bằng nến.
8 cúng dường là (từ phải sang trái): Ốc, trái cây, bột đồ hương, đèn hoặc nến, 3 cây đàn hương (không đốt), 5 đóa hoa trắng, nước trơn (nước thêm bột xà phòng), nước đun sôi.
Toàn bộ cúng phẩm dùng đựng bằng bình hoa sạch hoặc bát sạch (khí cụ bằng vàng, bạc, đồng, sứ v.v... đều được.)
8 cúng dường của Chân Phật Mật Uyển được xếp thành 2 hàng, hàng trên thờ cúng chư Phật Bồ Tát, hàng dưới thờ cúng cho việc quán tưởng bản thân biến hóa thành Bổn Tôn.
Ý nghĩa của 8 cúng dường:
Nhị thủy: Công đức thủy.
Hoa: Bố thí
Hương: Trì giới.
Đèn: Nhẫn nhục
Quả: Thiền định.
Đồ hương: Tinh tấn
Ốc: Như ý
Mật đàn thắp Đèn sáng vĩnh cửu.
Phía trên cùng của Mật đàn đặt lư hương, hương án. Phía trước hương án đặt Pháp khí.
Bố cục của Chân Phật Mật Uyển, đại khái là như vậy. Ngoài ra còn có những miếng vải nhiều màu, tán lọng che, khata nhiều màu, nhằm tăng thêm vẻ ủy nghiêm, trang trọng, càng khiến nơi đây trở nên tuyệt hảo hơn!
Hỏi: Chủ tôn đàn thành, nên thờ cúng vị nào?
Đáp: Chủ tôn của đàn thành chính là vị được thờ ngay chính giữa.
Điều này sẽ thay đổi tùy theo đối tượng.
Liên Sinh Thánh Tôn cho rằng, tốt nhất nên thờ Bổn Tôn của mình ngay chính giữa, cũng chính là Bổn Tôn mà trong tương lai bạn sẽ tu pháp hàng ngày (vị có duyên với mình nhất, mình yêu thích nhất.)
Làm vậy có 2 nguyên nhân:
Thành tựu tu Pháp trong tương lai của chúng ta, chính là trực tiếp trở thành “Bổn Tôn” thực sự.
Bổn Tôn ở chính giữa, cũng là để “tiện lợi” cho việc quán tưởng.
Ngoài ra việc thờ cúng Kim thân Phật Bồ Tát thông thường, thích hợp chọn số lẻ: 1 bức, 3 bức, 5 bức, 7 bức... Vì sao?
Vì số lẻ sẽ hiện ra “Chủ Tôn trung ương”, lại có câu nói thế này: “Số lẻ là số dương, số chẳn là số âm, sắp xếp số lẻ nhìn đẹp mắt hơn. (Số lượng Kim thân, chủ yếu là Kim thân, không tính ảnh.)
Trình tự lễ vật được sắp xếp theo thứ tự từ lớn đến nhỏ, là “Phật”, “Bồ Tát”, “Kim Cang”, “Thiên Thần”, “Chủ Tôn trung ương”. Tượng to bên phải, tượng nhỏ bên trái. Nếu có khá nhiều Kim thân, có thể xếp thành 2 tầng, thậm chí 3 tầng, 5 tầng.
Hỏi: Kim thân Liên Hoa Đồng Tử, có thể tôn thờ như chủ tôn đàn thành không?
Đáp: Có thể.
Vì “Liên Hoa Đồng Tử” là một trong Bát Đại Bản Tôn của Chân Phật Tông, tất nhiên có thể làm chủ tôn đàn thành rồi.
Ngoài ra, sự vĩ đại của Liên Hoa Đồng Tử có nguồn gốc lớn lao, mọi người đều biết:
“Đại Nhật Như Lai” hóa thân thành “Phật Nhãn Phật Mẫu”, “Phật Nhãn Phật Mẫu” hóa thân thành “Liên Hoa Đồng Tử”, “Liên Hoa Đồng Tử” hóa thân thành “Liên Sinh Thánh Tôn.”
Thế nên thờ “Liên Hoa Đồng Tử” cũng tương đương với thờ “Đại Nhật Như Lai”, “Phật Nhãn Phật Mẫu”, “Liên Sinh Thánh Tôn”. Điều này đã tổng trì truyền thừa Chân Phật Tông.
Việc khuôn Kim thân Liên Hoa Đồng Tử, dựa trên khuôn mặt của Liên Sinh Thánh Tôn ở độ tuổi ngoài 30, điều này không phải ngẫu nhiên.
Chúng ta tu trì pháp Bổn Tôn của “Chân Phật Mật Pháp”, nếu có duyên với “Ma Ha Song Liên Trì”, hoặc nhất tâm muốn vãng sinh “Ma Ha Song Liên Trì” chúng ta có thể tôn thờ “Liên Hoa Đồng Tử” làm Bổn Tôn chủ tôn, nhất định sẽ thành tựu, nhất định có thể vãng sinh.
Hỏi: Xin ngài nhắc lại cách sắp xếp đàn thành theo thứ tự được không?
Đáp: Tranh mạn đà la có thể gắn trên tường.
Tầng thứ nhất thờ cúng Chủ Tôn và Chư Tôn.
“Tháp” bên phải, “Kinh sách” bên trái.
Phía dưới là 8 cúng dường.
Dưới nữa là hương án.
Dưới nữa là Pháp khí tu Pháp.
Hai bên hông của Chủ Tôn có thể đặt “Thường Minh Đăng” tức “Đèn vĩnh cửu.”
Hỏi: Trước khi bố trí đàn thành, còn phải chú ý những điều gì?
Đáp: Sau khi lựa chọn mật thất, trước khi bố trí đàn thành, tốt nhất nên “tẩy tịnh”. Tẩy tịnh tức là thanh tịnh mật thất. Vì mật thất đó trước đó có khả năng là phòng ngủ, cũng có thể là phòng làm việc, thư phòng, nhà kho, có thể chứa những vong linh uế trược trong đấy.
Vì thế, ngoài việc dọn dẹp sạch sẽ, còn có nghi thức vẩy nước.
Cách đơn giản nhất là, chọn ngày “trừ nhật”, dùng “nước đại bi chú” vẩy từ trong ra ngoài. Đây chính là cách tẩy tịnh bằng nước đại bi chú.
Tẩy tịnh bằng nước đại bi chú khiến quỷ linh trong mật thất rời đi, và các loại vong linh ác ma không thể ở lại mật thất nữa.
Như vậy, hành giả tu pháp trong mật thất, thân tâm không còn lo sợ, cũng sẽ không xảy ra những việc không lành, quấy nhiễu tâm hành giả. Đây là vì mật thất đã thanh tịnh rồi.
“Tẩy uế” có khá nhiều cách, nhưng hành giả Chân Phật tẩy tịnh bằng “nước Đại Bi chú” là được.
Hỏi: Muốn bố trí đàn thành, có Kinh sách để tham khảo không?
Đáp: Liên Sinh Thánh Tôn có 2 cuốn sách:
Đường Triều Huệ Lâm Tập, có 1 cuốn sách, tựa sách là “Kiến Lập Mạn Đà La và Cách Chọn Đất”, nói rõ cách lập đàn thành và chọn đất.
Ngoài ra, Đường Pháp Toàn Tập, có 1 cuốn sách, tựa là “Kiến Lập Mạn Đà La Hộ Ma Nghi Quỹ”, nói rõ cách làm pháp để kiến lập đàn thành hộ ma.
Đây là 2 quyển sách cổ, có thể tự đọc để tham khảo.
Thánh Tôn viết 1 bài kệ như sau:
Chư Tôn la liệt phóng quang minh,
Hành giả đoan tọa trừ vọng niệm.
Dụng quang hoa viên mãn tu luyện,
Ta hóa thành Bổn Tôn bất nhị tâm.
Hỏi: Từng có người nói, tu hành không câu nệ việc “có hình tướng”, “không hình tướng” mới đúng. Đàn thành là có hình tướng, thế nên có thể không thiết lập đàn thành. Nói như vậy, có đúng không?
Đáp: Tôi từng nói, những ai không có tài chính lập đàn thành, có thể không lập. Làm vậy để tiện cho những hành giả Chân Phật nghèo túng, để họ có thể thuận tiện quán tưởng tu Pháp.
Trong khi có một số hành giả, đã đạt Thánh đệ, cảnh giới của họ cao siêu, biến hóa lạ lùng, họ không còn bị gò bó bởi việc có đàn thành hay không có đàn thành nữa. Những vị đạt Thánh đế này, biết pháp hữu vi - vô vi. Hiểu rõ “có hình tướng”, “vô hình tướng”. Những hành giả khai ngộ được như vậy, có thể không lập đàn thành.
Tuy nhiên, những ai chưa đạt cảnh giới này, tốt nhất vẫn nên lập đàn thành.
“Hữu tướng”: Một sự vật có hình dáng cho ta nhìn thấy, đây gọi là “hữu tướng giáo”. (Chư pháp thực hữu)
“Vô tướng”: Do nhân duyên mà thành, tự tánh vốn trống rỗng, gọi là “vô tướng”. (Chư pháp thực vô.)
Vô tướng là “Ư nhất thiết tướng, ly nhất thiết tướng.”
Tạm dịch: "Trong mọi hình tướng, xa lìa mọi hình tướng.”
Liên Sinh Thánh Tôn cho rằng, người tu hành chúng ta, từ “tục đế” – “sự thật quy ước” đi về hướng “Thánh đế”, từ “Thánh đế” -“sự thật thiêng liêng” đi về hướng “vô”. Nhưng khi giác ngộ rồi thì không bám vào tục đế, cũng không bám vào Thánh đế. Đừng bám vào "hiện hữu", đừng bám vào "không có gì". Đây là một cảnh giới rất cao và là tối thượng.
Vâng:
“Khả ư nhất thiết tướng, khả ly nhất thiết tướng.”
Tạm dịch:
“Có thể sống trong mọi hình tướng, cũng có thể tách ra khỏi mọi hình tướng.”
Mong rằng hành giả Chân Phật có thể hiểu và ngộ ra được.
Hỏi: Sau khi hoàn tất toàn bộ việc bố trí đàn thành, tiếp theo phải làm gì?
Đáp: Hoàn tất việc bố trí đàn thành, thì phải “khai quang” và “kết giới” cho Kim thân Phật - Bồ Tát trên đàn thành. Khai quang có nghi quỹ của khai quang, cả hai nghi quỹ này đều vô cùng quan trọng, không được bỏ qua.
“Khai quang” tức là khánh thành việc bố trí đàn thành, Phật - Bồ Tát - Chư Tôn đã an vị, hành giả chọn ngày làm lễ thờ cúng. “Khai quang” đôi khi còn gọi là “khai nhãn”. Điều này dựa vào quyển “Nhất Thiết Như Lai An Tượng Tam Muội Nghi Quỹ Kinh”, trong Kinh nói: “Nếu như nghi thức cúng dường đã hoàn tất, tượng Phật sẽ được ánh sáng khai quang. Giống như “điểm nhãn”, tức tụng Khai Nhãn Quang Chân Ngôn 2 biến.”
Lúc thực hành khai nhãn nghi quỹ, hành giả nhất định phải dâng hương hoa, Phật cúng (lễ vật Phật), đăng minh (đèn), v.v...
Nay nói rõ Khai quang nghi quỹ như sau:
* Chuẩn bị vải khai quang (vải cotton mới)
* Bút khai quang (bút lông mới)
* Gương khai quang (gương tròn mới)
* Chu sa đỏ.
1. Hành giả niệm chú thanh tịnh, niệm chú triệu thỉnh, phụng thỉnh Phật - Bồ Tát - Chư Tôn.
2. Hành giả cầm vải khai quang lên, 2 tay mở miếng vải ra, giả vờ lau từ xa, tức là thanh tịnh Kim thân, ý là để Kim thân không bị bám bụi.
3. Hành giả dùng bút khai quang, chấm mực chu sa đỏ, điểm vào tượng Kim thân từ xa. Lúc này tay phải cầm bút, tay trái cầm gương khai quang, ánh sáng trong gương chiếu thẳng vào tượng Kim thân.
4. Lúc này hành giả vừa niệm chú, vừa dùng bút khai quang từ xa điểm vào vị trí khai quang của tượng Kim thân. Cũng tức là hợp nhất “gương”, “bút”, “chú”, 3 trong 1.
5. Khai Nhãn Chân ngôn của Mật tạng, dịch sang tiếng Trung như sau:
“Thiên chi thần quang,
Địa chi thần quang,
Nhật Nguyệt thần quang,
Khai nhãn khai quang chú,
Khai nhãn quang quán thị thế giới,
Khai khẩu quang khai khẩu độ chúng,
Khai nhĩ quang văn thanh cứu khổ,
Khai tâm quang từ bi chúng sinh,
Khai thủ quang pháp ấn phù trợ,
Khai túc quang phi hành vạn lý,
Khai kim thân, hào hào phóng quang.
Om Ah Hum Seh.”
Tạm dịch:
“Thần quang của trời, thần quang của đất, thần quang của mặt trời và mặt trăng, thần chú mở mắt và khai thị,
Mở mắt nhìn thế gian,
Mở miệng khai ngộ đại chúng,
Mở tai nghe âm thanh cứu độ thế gian,
Mở tâm từ bi với tất cả chúng sinh,
Mở tay ánh sáng Pháp ấn để nâng đỡ,
Mở chân ánh sáng đầy đủ bay ngàn dặm,
Mở thân vàng, ánh sáng tỏa ra.
Om. Ah. Hum. Hrih”
(Trì chú này tổng cộng 2 biến)
6. Hành giả hiến cúng dường
7. Hành giả tụng Kinh ca tụng và lễ bái.
8. Hồi hướng:
Khai nhãn hành giả y,
Tâm vương chi trụ sở.
Chư Tôn truyền pháp duyên,
Khai Giác tự tánh quy.
Tạm dịch:
Những người đi với đôi mắt mở.
Nơi ngự của Vua tâm thức.
Chư Tôn ban truyền nhân duyên Phật Pháp.
Giác ngộ tự tánh trở về.
9. Cát tường Viên mãn.
Nghi quỹ khai quang, chỉ cần thanh tịnh trang nghiêm, trong tâm kiền kính, hợp lễ nghĩa, Phật - Bồ Tát - Chư Tôn từ bi, không vị nào không hạ giáng cả.
Hỏi: Hành giả Chân Phật không thuộc nghi quỹ khai quang, không dám tự mình khai quang, đồng thời không tự tin, thì phải làm sao?
Trả lời: Có thể thỉnh Thượng Sư Chân Phật Tông đến làm nghi thức khai quang điểm nhãn, cũng có thể thỉnh Pháp sư biết nghi thức khai quang về làm. Nếu vẫn không còn cách nào, có thể viết thư cho Sư Tôn bên Mỹ, cầu nguyện Sư Tôn khai quang cho đàn thành của mình. Tuy rằng Sư Tôn ở Mỹ, nhưng trong Chân Phật Mật Uyển của Ngài, Ngài có thể dựa vào địa chỉ và bức ảnh đàn thành bạn gửi, thực hành pháp khai quang từ xa. Chư Tôn và Không Hành Mẫu tự ắt sẽ bay và giáng xuống đàn thành của bạn, đây cũng là pháp khai quang bất khả tư nghị.
Rất nhiều đàn thành được khai quang từ xa, cũng nhận được nhiều trải nghiệm linh dị.
Sau khi được khai quang từ xa, phát hiện khắp đàn thành được rưới đầy tịnh thủy và gạo.
Sau khi được khai quang từ xa, đêm hôm đó mộng thấy Sư Tôn trực tiếp đến khai quang.
Sau khi được khai quang từ xa, chính chủ nhân đàn thành nghe được Thiên nhạc êm tai.
......................................
Hỏi: Thế nào là “kết giới”? Nghi quỹ “kết giới” thực hành như thế nào?
Đáp: “Kết giới” chính là thực hành một pháp, ấn định ranh giới khu vực của đàn thành. Mà vùng đất được giới hạn khi hành pháp, chính là “kết giới địa.”
“Kết giới” mang ý nghĩa che chắn khỏi điều ác và hộ trì điều thiện, là pháp đẩy lui điều ác, sống trong điều thiện.
“Kết giới” có nghĩa là tất cả các tà ma không thể vào “kết giới địa”, chỉ có Thần Thánh mới được vào “kết giới địa.”
“Kết giới” có các kích thước lớn và nhỏ:
Lớn tựa cả một hành tinh, một lục địa, một quốc gia. (Nhân Vương Hộ Quốc Pháp, chính là kết giới cho 1 quốc gia.
Nhỏ tựa một pháp hội, một giới trường (đạo tràng được thọ giới), một căn nhà, một đàn thành.
Liên Sinh Thánh Tôn, hiểu pháp kết giới của Mật giáo như sau:
1. Kim Cang Quyết Pháp: Lập quyết (cắm cọc gỗ) trên mặt đất.
2. Kim Cang Tường Pháp: Tường hình vuông.
3. Kim Cang Võng Pháp: Như lưới được kéo căng trong hư không, đầu lưới sẽ được hạ xuống đàn thành kim cang.
4. Kim Cang Hỏa Pháp: Dùng lửa bao vây lưới kim cang.
5. Đại Tam Muội Da Pháp: Dùng ấn minh (thủ ấn) làm tổng kết giới ngoài Hỏa viện (thềm sân nhà kết bởi lửa).
Liên Sinh Thánh Tôn, hôm nay đặc biệt tiết lộ “Kim Cang Võng Hỏa Pháp” như sau, pháp này là Đại Bí Mật Pháp, thường sẽ không dễ dàng nghe được.
1. Tịnh thân nhập đàn. Sau khi triệu thỉnh thực hành pháp Tứ Quy Y, pháp Đại Lễ Bái, pháp Đại Cúng Dường, pháp Tứ Vô Lượng Tâm.
2. Kết ấn: Kim Cang Võng ấn.
Hai lòng bàn tay đan vào nhau, hai ngón út và hai ngón trỏ chạm nhau dựng đứng, hai ngón cái tách ra không chạm nhau, ngửa lòng bàn tay hướng vào hư không. Lập tức thành thủ ấn.
3. Quán tưởng: Lấy mạn đà la làm trung tâm, và một tấm lưới lụa trắng phun ra từ đỉnh đầu Chủ Tôn, sau đó tấm lưới buông xuống theo mọi hướng. Loại quán tưởng này rất giống với hình ảnh phun nước của đài phun nước, một cột nước lớn ở giữa phóng vào trong hư không, sau đó tạo thành một loại tán cái, bao phủ tứ diện bát phương (4 phương 8 hướng).
Cách quán tưởng này, chính là cách quán tưởng “cây dù - lọng”
Muốn lớn cỡ nào thì lớn cỡ đó.
Cách quán tưởng này cực kỳ cơ mật.
4. Kim Cang Hỏa Ấn (kết ấn)
Lòng bàn tay của hai tay hướng lên trên, úp vào nhau. Tay phải chồng lên tay trái, hai ngón tay cái dựng đứng, tức thành ấn minh.
5. Quán tưởng: Quán tưởng Kim Cang Võng kết xong, phủ đầy ngọn lửa, cũng chính là quán tưởng Hỏa Tán (dù lửa.)
6. Trì chú:
Om. Namo. Soha. (7 biến) (hỏa võng)
Om. Xilinmo (21 biến) (hộ thân)
Bách Tự Minh Chú (3 biến)
7. Từ quán tưởng hỏa tán, nhập định vào bổn tâm vi diệu của Hỏa Diêm Viện, kiến lập ngọn lửa kim cang tinh thuần nhất trên hư không, như được Đại Như Ý Luân bảo hộ, ngay lập tức “Trăm tà không xâm, vạn ma không nhập”, hành giả tu pháp trước đàn thành, tự chứng Bồ Đề, tham sân bị diệt mãi mãi, Pháp Tạng viên mãn.
8. Xuất định hồi hướng:
Kim Cang diệm hỏa tụ,
Quần ma diệt vô dư
Tịch tịnh thường tu trì,
Nhất thiết trừ đại nạn
Thiên thượng và nhân gian,
Giao hội Thánh đàn tiền
Thọ phúc như Phật đẳng.
Phổ chiếu thập phương thành.
Tạm dịch:
Ngọn lửa kim cang tụ, chúng ma quỷ bị quét sạch.
Tập im lặng thường xuyên. Tất cả thảm họa đều được tiêu trừ.
Đất trời, gặp nhau trước đàn thành.
Thọ Phước như chư Phật. Chiếu khắp đàn thành mười phương.
9. Cát tường viên mãn.
。Liên Sinh Thánh Tôn thường dạy thế nhân, dùng nước Đại Bi chú thanh tịnh kết giới. Đồng thời sớm đã tiết lộ Đại Bi Chú Thủy Thanh Tịnh Kết Giới Pháp, mong rằng 3 mục nghi quỹ “kiến lập đàn thành”, “khai quang”, “kết giới” này, hành giả Chân Phật đều có thể hiểu, mọi việc làm pháp đều viên mãn không thiếu sót gì.
Ngoài ra, Đại Tam Muội Da Kết Giới Pháp, là pháp kết giới lớn nhất. Pháp này cần được ban trực tiếp, vì không phải pháp bình thường.
Có hai câu nói về Đại Kết Giới samaya này:
Đại Tam Muội Da kết giới,
Thị cận Chuyển Luân Vương Phật đỉnh.
Phàm thị tương vi chư đạo giả,
Bất năng giải, bất năng hoại.
Tạm dịch:
"Kết giới Samaya lớn, ở gần đỉnh của Đức Phật Chuyển Luân Thánh Vương. Phàm điều gì trái với Đạo đều không thể giải hoặc tiêu diệt."
Tất cả Chư Tôn đang tu hành, trong vòng 500 do tuần (yojana - đơn vị đo chiều dài của Ấn Độ cổ đại, 1 yojana khoảng 8 dặm), không một vị nào có thể hạ xuống đàn thành. Vì uy đức của mão Phật Chuyển Luân Vương có thể phá hủy tất cả các pháp.
Hỏi: Thế nào là Kết Giới Ngũ Tướng?
Đáp: Cũng chính là 5 hình tướng kết giới. Gồm hình vuông, hình tròn, hình trống, hình bán nguyệt, hình tam giác. Lưới Lửa Kim Cang trong hư không được bao phủ bởi một nửa mặt trăng, nhưng nó là một vòng tròn trên mặt đất. Hành giả cũng có thể sử dụng gỗ tự nhiên và đá làm mốc.
Kim Cang Tường là hình vuông.
Kim Cang Quyết chủ yếu là hình tam giác.
Hỏi: Đàn thành sau khi được kết giới, liệu có nên cho phép người khác vào chiêm bái hoặc thăm viếng không?
Đáp: Vấn đề này có rất nhiều đệ tử hỏi, thế nên giải thích tường tận như sau:
Đàn thành vốn là sự tập kết bí mật, là nơi thần thánh quy về, những người bình thường không phận sự, những người không tin, những người ô uế...thực sự không nên để họ tự do ra vào, để tránh phạm tội khinh thường
Đàn thành có thể thỉnh Thượng Sư của mình ra vào chỉ đạo, đồng môn của mình ra vào đồng tu, cũng chính là những người sống trong tam muội, thì không sao.
Tuy nhiên, để đáp ứng cơ duyên của chúng sinh, đôi khi có thể thể hiện sự uy nghiêm và vẻ đẹp của đàn thành là để người khác đi vào chiêm bái hoặc ngắm nhìn. Nhưng bạn phải giải thích trước về phép lịch sự mà họ nên có khi vào đàn thành. Đây là một pháp ứng phó với tình huống, phổ môn thị hiện, tiếp dẫn tín chúng.
Đàn thành thường có những người không phận sự ra vào, phải thường xuyên tẩy tịnh và kết giới là được.
Trích từ văn tập số 81 – Chân Phật Nghi Quỹ Kinh của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn.